Tuesday, 23 April 2013

SẤM TRẠNG TRÌNH - NGUYỄN BỈNH KHIÊM !!!



Sấm Trạng Trình 

Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao


Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ xây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương


Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chấp tay


Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
Ðông a âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh


Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn


Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho


Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài


Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đắp núi khi say xây thành
Lấy đạt điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở giếng mòn


Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người


Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
Dưới trên dốc chí lo toan
Những đua bán nước bán quan làm giàu 


Thống rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non 


Dư đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi
Việc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ 


Xem tượng trời đã giơ ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồn phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề


Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu


Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình 


Một góc thành làm tâm chứng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần 


Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê 



Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình 


Nội thành ong ỏng hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long 


Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
 


Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ? 


Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời này sự lạ
Bổng khiến người giá họa cho dân 


Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng giục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân


Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi 


Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về 


Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?


Thương những kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn 


Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này 


Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chử Rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài 



Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi 


Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong 


Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài 


Xem ý trời có lòng đãi thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
Chọn đầu thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia 


Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường 


Ðời này thánh kế vị vương
Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài 


Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu 


Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thành long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham 


Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi 



Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí đều không 


Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh 


Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh 


Võ thông yên thủy thần kinh
Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không 


Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình 


Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi 


Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho 


Trước là biết nẽo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau 


Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường 


Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân
Ðoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
 


Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ? 


Phá điền đầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa 


Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng 


Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải - người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông 


Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương 


Kẻ thì phải thủa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thủa hung tàn
Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình 


Muông vương dựng ổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày 


Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn 


Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân 


Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình 


Bốn bề núi đá riểu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh 


Bắc kinh mới thật đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh 


Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho 


Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm


Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẩm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để lấy dấu truyền
Gẩm xem bốn báu còn in đời đời


Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay


Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh


Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều chỉnh hộ may
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân


Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh


Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn


Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân


Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời 


Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình


Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng


Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân đoản mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà chép ra


Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao


Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời


Hợp đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luân


Nói ra am chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
Chờ cho nhân đoản hết sau
Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn


Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn


Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẩm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng


Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng


Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài


Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là


Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu là
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương


Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay
Thời vận đã định thời nầy hưng vương


Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng


Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay


Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây


Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi


Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là


Chẳng tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây


Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu


Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu


Ðến đời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này

Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn


Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây


Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay


Con mùng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân


Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dư phần như ai
Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình


Canh niên tân phá
Tuất Hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình


Long vỹ xà đầu khởi chiến tranh

Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình


Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu

Chuột nọ lăm le mong cản tổ

Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê củ bắt ngựa tàu

Cửu cửu kiền khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an

Bảo Giang thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca

Dục đức thánh nhân hương

Qua kiều cư Bắc phương
Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang

Thượng đại nhân bất nhân

Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu kim thành tráng

Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ 

Mục giả dục nhân canh 
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh


Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái bình

Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh


Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi bắc kinh

Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh


Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình

Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh


Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương


Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương

Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại ngưu lang


Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang

Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương


Thiên dử thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang

Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương


Nhân nghĩa thùy vi địch
Ðạo đức thực dữ đương

Tộ truyền nhị thập ngủ
Vận khải ngủ viên trường


Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường

Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương


Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang

Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương


Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân


Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

Ðoài phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân


Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hại mưu thần như lâm

Trần công nai thị phúc tâm
Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du


Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành

Hiệu xưng thiên hạ thái bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
 


Trạng Trình -  Nguyễn Bỉnh Khiêm 
 

NHÀ THƠ THU NGUYỆT - THI HỮU BỐN PHƯƠNG !!!



Thi hữu bốn phương
Nhà thơ Thu Nguyệt
Tiểu sử tác giả:
Tên thật là Nguyễn Thị Thu Nguyệt, sinh ngày 02-08-1963
Quê quán:  Cao Lãnh – Đồng Tháp

Tác phẩm đã xuất bản:
Điều Thật (thơ) 1992
Ngộ (thơ) 1997
Cõi lạ (thơ) 2000
Hoa cỏ bên đường (thơ) 2002
Theo mùa (thơ) 2006
Đã chiếm nhiều giải thưởng

Thi hữu bốn phương: Thu Nguyệt
Thơ Thu Nguyệt bình dị như lời một cô giáo dạy học ở trường làng. Nhưng trong thơ ngỗn ngang tâm sự, và bình thản một cách lạnh lùng trước mọi đau thương hữu hạn của trần thế, của gia đình nỗi bất hạnh ghê gớm đã xảy ra quá nhiều đối với một tâm hồn trong sáng như mặt trời mọc giữa buổi bình minh. Bất hạnh lớn nhất là thiếu hình bóng mẹ của tuổi ấu thơ bất hạnh lớn thứ nhì là tang chồng ở tuổi còn thanh xuân. Đó như là những điều tạo hóa thử thách một con người trong trắng, ngây thơ và đẹp như một giấc mơ .

Viên Linh viết về Trần Tuấn Kiệt một mình một trường phái Cửu Long nhưng hợp lẽ hợp tình đối với Thu Nguyệt hơn
Thế giới tinh thần quá phong nhiêu, tiếng thơ quá chắc lộc và thơm tho như cái bánh bột lọc của quê nhà.

Thi phẩm Ngộ và Điều Thật không dễ cho ta tóm gọn và phê phán bởi nó dàn trải tâm tư cùng vùng đất Cửu Long Giang vô bờ vô bến. 

Ngộ đây cũng không phải là Ngộ theo nhà Phật, Khi mà nhà thơ đã đạt tới cái đỉnh của nghệ thuật thi ca thế giới khi nhắc tới WhitMan và nương theo tập lá cỏ đến cái tinh thể bát ngát tuyệt vời của tâm tình con người với thế giới và cùng song hành với vạn vật nói như Whitman, ta có quyền yêu tất cả những người trong thế gian này riêng với ý đó tôi xin tỏ tình yêu quí trân trọng đối với nhà thơ Thu Nguyệt. 

Người thiếu phụ như lúc nào cũng thanh tân, cũng cao quí và bình thản trước mọi bất hạnh cam go của đời mình chứng thực bằng những bài thơ viết về quê hương mình, về sự nổi chìm trên bến Cửu Long Giang mà ngoài Thu Nguyệt ra chưa dễ gì ai đã làm được
                                                                        Trần Tuấn Kiệt
Trích thơ Thu Nguyệt:

Cội nguồn
Chiều tết ba mươi chải đầu mang guốc
Mỗi năm ba tôi làm việc ấy một lần
Vài sợi pha sương, da dầy hơn đất
Cần gì lược chải đầu, cần gì guốc cho chân.

Bước mạnh, nói to, mỗi năm có một lần
Ba nhẹ gót lầm rầm khấn vái
Tôi khép nép nhìn người đứng lạy
Cảm thấy mình sợ hãi trước tổ tiên.

Ôi cái điều thiêng liêng
Tôi cứ ngỡ không còn trong tôi nữa
Cuộc sống quay nổi chìm lành vỡ
Tưởng đời ta như ngọn gió không nguồn

Chiều ba mươi này bất chợt khói hương
Mùi nhắc nhỡ cội nguồn…
Tôi khóc!
Giọt nước mắt tan mát vào nền đất
Ba tôi cúng xong rồi
                                    bỏ guốc
                                                vuốt tay trơn.

Hoài bão
Làng quê tôi nép bên bờ câu hát
Mượn chén ăn cơm lắc lẽo gập ghềnh
Nếu ai có một làng quê như vậy
Thì suốt đời không thể nào quên

Lục bình buồn trôi xuống trôi lên
Hoa tím vướng mái dầm vội vã
Người quê tôi không ai gì yếu cả
Mắt nhắm rồi đất còn đọng móng tay

Ngày tháng quê tôi không rộng không dài
Nỗi tất bật rộng dài hơn ngày tháng
Già tóc màu mây, trẻ tóc màu nắng
Đồng lúa quê tôi theo mùa cứ xanh rờn

Ba tôi xuống đời không thích ngắm gì hơn
Đồng lúa chín tôi lớn dễ dàng như cỏ
Lúc hát vẫn là “bắt nhái cặm câu”…

Thế nhưng dù đi đâu về đâu
Tôi vẫn nhớ như in mùi đất ướt
Dáng ba tôi ngồi be bờ tát nước
Cuối tháng mười cơn gió bấc se se.

Gió bấc đi rồi gió bấc lại về
Câu chúc tết năm này như năm trước
Tôi loay hoay với nỗi niềm, mong ước.
Quê ngày mai nên khác với bây giờ?

Điều thật
Mùa xuân về bạn lại ra đi
Một chút lạnh vo tròn trong nắng ấm
Xe đã hút con đường xa thẳm
Hạt bụi còn trong mắt trong theo

Hai miền quê một mảnh đất nghèo
Con ốc con cua niềm vui tuổi nhỏ
Hái những chùm sao gài trong đáy giỏ
Cột tia nắng trời trong ngọn cỏ trâu ăn

Những mơ ước lớn lao, những qui luật vĩnh hằng
Giành giật đời ta – mặt trời đầy giỏ
Rồi tất cả chỉ là ngọn cỏ
Chỉ để trâu ăn không thể cột mặt trời.

Tất cả rồi sẽ xa hút nhỏ nhoi
Chỉ hạt bụi trong mắt ta là lớn
Bạn lần nữa ra đi, mùa vô tình đến sớm
Mình rao bán nỗi buồn không đủ để mình mua.

Áo trắng
Một thời niên thiếu đi qua
Một thời trắng áo hai tà mộng mơ
Áo ngày xưa áo bây giờ
Cổng trường nay, cổng trường xưa nhập nhòa.

Một thời con gái đi qua
Giờ nhìn theo bước em mà nhói tim
Dõi sau áo trắng cố tìm
Dáng mình cái thuở vai mềm mắt nai…

Rắc theo những bước áo dài
Những vần thơ bước ra ngoài thời gian
Ta ngồi mơ gió lang thang
Thổi ta vào lớp xếp hàng bên em.

Gởi anh
Em ngồi hóa đá thành thơ
Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu…

Em ngồi hóa đá thành chiều
Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa…

Em ngồi hóa đá thành mưa
Trả anh cái phút anh đưa qua cầu…

Xa nào anh có hay đâu
Đá từ lúc ấy bắt đầu hóa em!!!

Vòm tre
Thị thành điếc đặc khói xe
Trưa nay ngồi dưới vòm tre quê mình

Quá cưng…
                        Chú nhện trên cành
Quá thương…
                        Mắt chú chim rình ngó ta
Chời ơi ngọn gió quê nhà
Mắt từ kiếp trước mắt qua kiếp này
Nhẹ nhàng lá rụng trên vai
Dịu dàng thanh thản hai tay ắp đầy.

Đi đầu rồi cũng về đây
Dưới vòm tre thấy tháng ngày nhẹ bâng
Không muộn phiền. Chẳng băn khoăn
Tóc buông, áo bỏ ngoài quần, chân không
Nghêu ngao hát với ruộng đồng
Không không, sắc sắc, không không
                                                            Tắng tằng…!
Nhân gian ơi có biết rằng
Thế gian đâu cũng chẳng bằng nơi đây

Bến lở
Quê mình không bể không dâu
Sông sâu nước chảy thành câu lỡ bồi.

Nước trôi mang đất đi rồi
Phù sa vun bón đắp bồi nơi đâu
Để lại đây tiếng ví dầu
ầu ơ sào ngắn sông sâu khó dò.

Xa thêm hai bến con đò
Không còn lối cũ in mờ dấu chân
Đến thiêng như miếu thổ thần
Khói hương cũng đã hòa thân giữa dòng

Rộng bao nhiêu vẫn là sông
Biển khơi chớ có đèo bòng hóa thân
Thị thành dù giáp dấu chân
Nằm mơ vẫn mớ lời dân miệt đồng.

Ta về nơi cũ sang sông
Đò xưa bến mới phập phồng sóng xô
Người xưa vắng tự bao giờ
Lối xưa giờ lục bình hờ hững trôi.

Bến xưa lỡ mất đi rồi…

Mẹ trẻ
Ngày mẹ mất bông cà na rụng trắng
Hoa như mưa nhòe nhoẹt rối tơi bời
Trăng nắm đất con lắp từ biệt mẹ
Có rất nhiều những cánh hoa rơi

Hoa cũng như đời mẹ, mẹ ơi!
Nở lặng lẽ và rơi lặng lẽ
Cô đơn nào hơn những người mẹ trẻ
Con chưa đủ lớn khôn để chia sẻ vui buồn

Giọng ru buồn len lén hoàng hơn
Ba mươi năm sau đời con mới hiểu
Nỗi cô đơn mẹ âm thầm gánh chịu
Nhiều như bông cỏ dại quê mình

Con cười bên những đứa con xinh
Nghe nước mắt chảy vào trong lặng lẽ
Bông cà na vẫn trắng tinh như thế
Nỗi cô đơn vùi xuống đất muôn đời.

Ngắm con khờ con thầm gọi mẹ ơi
Mua tí tách ngoài thềm như tiếng vọng
Nhìn lên vách con khóc cùng với bóng
Mẹ bây giờ mới hiểu mẹ ngày xưa

Thoáng hạ
Mùa hạ đến hằng năm không trễ hẹn
Chỉ có ta lấn bấn cuối xuân thừa
Ép vào vở giúp con cành phượng đỏ
Bỗng ngỡ ngàng nhớ điếng cổng trường xưa

Xe nước mía bóng mẹ trùm mát rượi
Trái xoài xanh chấm muối đập vô tường
Bài toán học bỏ quên thành cửa sổ
Gió thổi vèo cuốn lịch sử theo luôn!

Rồi tiếng trống cuối cùng năm học cuối
Đánh chúng ta văng tứ tán giữa đời
Quay tất bật giữa bốn mùa sinh kế
Thoáng hạ về nhìn phượng… bỗng xa xôi.

Còn ít phượng thừa ta ép cho tôi
Con bướm nhỏ mất vòi, lệch cánh
Đặt vào ví bên những tờ tiền lạnh
Mùa hạ nát nhàu, bầm đỏ xác thời gian.

Nhạn gió
Anh chỉ cho em
                        Giữa đồng cánh nhạn
Lẻ loi bay
            Như chiếc lá rời cành
Em lặng lẽ soi bóng mình
                                    Mặt nước
Chỉ bóng mình, dù bên cạnh có anh.

Cánh nhạn chiều bay quẩn bay quanh
Em quanh quẩn lục tìm kỷ niệm
Nhạn bay lẩn vào hoàng hôn tím
Em một mình tựa vào gió lang thang.

Nước dưới chân chảy chẳng vội vàng
Anh bên cạnh mơ màng hư thực
Gió vẫn thổi như ngàn thuở trước
Chiều qua rồi, nhạn khuất…
                                                Lẻ loi em

Em lặng thầm soi bóng gương đêm
Nghe mỏng mảnh hơi thở mình nhẹ lắm
Nghe tiếng nhịp trái tim từ sâu thẳm
Vọng lẫn vào tiếng nhạn
                                    Chập chờn bay.

Huyền thoại dã tràng
Có một lần em nằm mơ thấy biển
Lùi ra xa nhường bãi cát ta ngồi
Anh biến mất bất ngờ như lúc đến
Bãi cát mịt mù giọt nước mắt em rơi

Hai chú dã tràng trên cát nhỏ nhoi
Cứ xe cát theo hình giọt lệ
Biển ào ạt mênh mông đến thế
Vẫn không quên một viên cát nhỏ mềm.

Rủ sạch mình, em bước qua đêm
Vo viên giấc mơ ném vào ngọn sóng
Nhón gót đi giữa biển đời sâu rộng
Xe cát hai hàng giọt nước mắt sau chân.

Sợi hoa
Năm xưa dưới gốc tràm này
Anh rung hoa rụng rơi đầy tóc em
Rồi đùa: giống tóc bà tiên
Sợi đen sợi trắng hồn nhiên ta cười

Bây giờ anh đã xa rồi
Về thăm gốc cũ em cười dưới hoa
Gió từ xưa thổi từ xa
Mà hoa vẫn cứ là hoa trên cành

Mà thôi cần nữa chi anh
Tóc em giờ cũng sắp thành bà tiên
Có điều chẳng thể hồn nhiên
Khi nhìn sợi bạc…
                        Đành…”kiên nhẫn” cười!

Phù phiếm
Em chăm chút lược và gương
Cầu cho mình chút phấn hương trang dài

Giật mình nghe tiếng bàn tay
Nhắc thầm thuở tóc dính đầy rơm khô

Kiếp béo con bị sóng xô
Trách chi em giữa trận đồ nhân gian.

Vai đời
Em ngồi trang điểm trước gương
Cố che bao nỗi đời thường xốn xang.

Này môi này mắt đoan trang
Mẹ cha sinh tạo mùa màng dưỡng nuôi
Đây nơi nước mắt nụ cười
Cái nhìn dịu ngọt, những lời đắng cay

Nhẹ nhàng khéo léo bàn tay
Chỉn chu xóa vết tháng ngày nông sâu
Tóc lâm râm bạc trên đầu
Thời gian vó ngựa qua cầu phấn son.

Em ngồi trang điểm trước gương
Cố che bao nỗi đời thường quẩn quanh
Má hồng
            Môi đỏ
                        Mong manh…

Trường ca cho cỏ
*lời mở đầu
Xin phép ngài Walt Whitman
Viết đôi dòng về cỏ.

I.
Lúc ta chưa có trên có trên mặt đất
Cỏ đã vươn chồi khắp thế gian.
Ông cha vỡ đất khai hoang
Cỏ chết đi một nửa

II.
Tôi, một thời tuổi nhỏ
Chăn trâu.
Nửa còn lại trâu ăn một nửa.
Thành phố mọc lên san sát nhà cửa
Cỏ không còn chỗ mọc
Đành gom về trên mộ ông tôi.
Người ta phát hiện ra rằng cỏ một thời
Ông tôi là dũng sĩ.
Phần thưởng truy lãnh cho người cao quí
Ngôi mộ bằng xi măng.
Vậy là không còn đất dung thân
Cỏ!!!

Cuối
Tôi có một ước mơ không nhỏ
Được như người – Whitman
-Chẳng xin bia đá bia vàng
Xin một nấm mộ trần
Để dành cho cỏ mọc.

Ngộ II
Ta đi nghễu nghến giữa đời
Bỗng dưng một tiếng chuông rơi…
                                                            Giật mình.
Cổng chùa ta đứng lặng thinh
Nghe hoàng hôn với bình minh nhập nhằng.

Nếu ta đến được niết bàn
Rồi thì sao nữa? Bần thần ngửa tay:
Một,hai,ba,bốn,năm này
Sáu,bảy,tám,chín,mười… ai cũng mười

Ta đi nghễu ngến giữa đời
Bỗng nghe một tiếng chuông rơi…
                                                Bực mình.!

THƠ NGUYỄN VĂN THỨC - BẠN THƠ BỐN PHƯƠNG !!!



BẠN THƠ BỐN PHƯƠNG  
   Thơ Nguyễn Văn Thức                  

Có những tập thơ còn mới tinh , xem rất giản dị rất đơn sơ, đôi khi mộc mạc, cả đến ngôn ngữ thi ca bình dị mặc nhiên như dáng dấp đơn sơ và bình dị như chủ nó.

Thơ Nguyễn Văn Thức đọc qua cũng thế, đơn sơ bình dị như không có gì nhưng khi chúng mình chịu suy nghĩ trầm tư sẽ thấy thơ Nguyễn Văn Thức lại thị hiện một hình thái một thuật ngữ dung dị ấy để nói về một định mệnh, một thứ thân phận làm người mà hầu hết các triết nhân hiện đại phải suy tư cả cuộc đời mới ngộ được.

Tôi nói chữ ngộ đây không có một ý nghĩa hay ngôn từ của nhà Phật, ngộ đây hay nói như các nhà họa sĩ hiện đại như  Nguyễn Trung, như Nguyên Khai như Đinh Cường hay Hồ Hữu Thủ hay Phạm Cung , ngộ ở đây bao hàm tư tưởng Âu Châu hiện hữu mà các nhà triết gia hội họa mới của ta thường dùng chữ Đạt được, chứ không nói theo Phật là giác ngộ để hiểu thấu về lẽ vô thường của đạo.

Với thi ca nghệ thuật thì đạt tới cái tinh thể của vũ trụ vạn vật hay cái mà Nhân vi của con người trước cõi đời. Chỉ cần đạt tới thôi thì sự tồn tại sự thăng hoa phát triển sự sinh hóa vũ trụ vạn vật đều trong chiều hướng đó cả. 

Thơ Nguyễn Văn Thức không rơi tỏm xuống cái cõi vô thường hay hư vô chủ nghĩa. Thơ rất sinh động với một thứ linh hồn đơn độc sống , vừa điêu linh trong xã hội hiện tiền , mà lại rất phiêu hốt với cõi bờ tồn sinh vô hạn.

Phố phố Sài Gòn thơ Nguyễn Văn Thức sáng tác mới nhất, qua một thời khói lửa in dấu vết cuộc chiến loạn sâu thẳm trong tiềm thức nhà thơ. 

Với tập này ông đã bỏ hẳn những cảm xúc trước 75 và sáng tạo ý thơ mới mẻ hoàn toàn, đem linh hồn siêu thực Âu Châu của thời đệ nhị thế chiến vào tác phẩm, như nét tranh kỷ hà học của Picasso, nét vẽ trừu tượng của phong trào hội họa mới và kỹ thuật thơ cũng thế, những nét thơ gần với thơ của Jacques Prevert, của Bretom những ý thơ giao hưởng với tư tưởng hiện hữu trên thế giới. 
Thoạt đầu nhìn qua thấy đơn giản nhưng càng suy tưởng sâu xa thì thơ Nguyễn Văn Thức càng hết sức biểu tượng, xứng đáng với tranh bìa của bậc thầy hội họa trừu tượng Việt Nam là Hồ Hữu Thủ, trong cái vẻ đơn điệu lại lộng đầy những bí ẩn của một linh hồn thơ sâu sắc in hằng dấu vết thời gian và nỗi khắc khoải của đời người, cảm thông với một xã hội đang cực kỳ thay đổi đôi khi nghịch chiều với quê hương dân tộc chúng ta hôm nay

Thi hữu bốn phương xin giới thiệu vài bài thơ của Nguyễn Văn Thức sau đây mời quí bạn thưởng lãm .


Hôm qua hôm nay
Chở em đi
Trên con đường cách mạng
Nói chuyện nhiều
Nhưng không thấy em vui

Hôm qua
Hôm nay
Vẫn đi trên con đường cách mạng
Hoa nở đầy
Cũng không thấy em vui

“hoa ấy
Đâu phải hoa màu đỏ
Của tim”

“hoa ấy
Đâu phải
Hoa mang tin mừng
Của tuổi”

Một lần dừng chân trên con đường cách mạng
Xót xa
Tôi hôn lên mắt em
Hôn tận đáy linh hồn
                                    23/10/2009

Chiến tranh và góc khuất
Đã thấm đẫm vào ta
Một chút hoang vu
Một chút buồn
Một chút Hà Nội
Thiếu vắng ngày xưa

Còn Sài Gòn
Cứ mưa và nắng
Ngày tháng
Bước đi
Nhớ nhớ quên quên

Còn Huế
Đà Nẵng
Thời trai trẻ
Ta đâu quên được
“trưa hoang trống nổi dăm hồi
Của trường khép lại mất rồi người ơi”

Một chín năm tám
Thơ ta ngày ấy
Buồn quá phải không em
Buồn quá
Để rồi đi khắp bốn phương trời
Đâu có còn trở lại
Sông Hàn lần nữa
Thăm em

“tuổi thơ ngây em bé bỏng vô cùng
Tuôi thơ ngây
Chiến trnah ngun ngút cháy từng giờ”
Thời ấy buồn quá
Để rồi đi khắp bốn phương trời
Chiến trnah mịt mù khắp khắp
Khi xong
Còn chút lành lặn
Tay trắng
Ta đã mất em rồi

Cám ơn trời đất
Cho ta lành lặn
Một chút lành lặn
Đến bây giờ
Thỉnh thoảng
Vẫn đi phố phố Sài Gòn
Làm chứng nhân
Với người tình muộn
(chẳng biết nàng có yêu mình không
Hay thương hại
Một đời rũa nát
Trong chiến tranh)

Chiến tranh
Là tiếng buồn rơi
Là bao miền góc khuất
Là thất vọng
Đời đời

Em ơi
Người ta có nhìn thấy rõ chiến tranh không
Hả em
                                                                        31/5/2008


Nhập thế
Tôi chẳng còn nhớ gì
Tiếng Anh hay tiếng Pháp
Toán cộng hay toán trừ
Toán nhân hay toán chia

Tôi cũng không nhớ nổi
Mớ triết học
Âm u, gây nhiễu
Gầm thét, gầm gừ
Đấu tranh không lối thoát

Nhưng không
Tôi vẵn nhớ
Từng tên, từng mẫu tự
Của từng người con gái đã yêu tôi

Cảm ơn thượng đế
Tôi không bao giờ
Phủ nhận kiếp làm người
(dù có đôi lần
Thất vọng ê chề)

Dù dạt trôi
Trôi dạt
Tôi cũng cúi đầu
Nhận lãnh
Yêu em

Dù xác xơ
Hay tồn tại
Tôi cũng cúi đầu
Nhận lãnh
Yêu em.


 Bài tình ca
Em giơ tay vuốt tóc
Phố xá em cứ nhìn
Xanh màu xanh cây cỏ
Đẹp suốt đường em đi

Em cười tôi vu vơ
Bao tuổi rồi vẫn thế
Chỉ vận vào thân thể
Những bụi bặm mù khơi

(hãy vuốt tóc như em
Nhìn đời như gió nhẹ
Cười vui đẩy phố xá)

Bí ẩn gì xa xôi
Triết lý gì bây giờ
Em vẫn thường đứng đó
Vuốt tóc đời thơ ngây

Và rồi tôi đã hiểu
Trưa nay như trẻ lại
Về nhà quên đóng cửa
Nhịp hát bài tình ca.


Vấn nạn đêm
Ở một góc phố
Người con gái ngồi gặm ổ bánh mì điên

Ngỡ ngàng

Mùa đông đến gõ cửa từng nhà
Gió vi vu trên hàng cây
Lá rơi
Tứ tán dọc đường

Một phút giật mình
Rướm máu
Đêm chờ
Sáng mai thức giấc

Những ngổn ngang
Quên đi
Nhớ gì đêm

Khốn nạn
Một mình
                                    23/11/2009

Trang Kinh

Thiền sư
Đứng bên thềm
Nhìn xa xa
Bao nhiêu người đang mãi mê
Danh vọng, cơm áo gạo tiền
Sắc dục miên man
Nhiều khi thù hận nhau
Mất hết tình người
Thiền sư
Lặng lẽ đi vào
Mở trang kinh bát ngát
Bát ngát hư không

Ngôi chùa cổ

Ẩn mình giữa cỏ cây
Lạnh
                                    11/6/2012


Gọi tên em

Em đã từ giã tôi chưa
Hay lặng lẽ
Âm thầm đi

Tôi cũng âm thầm
Gọi khẽ
Tên em
Đầy ấp ngăn tim

Nhìn lại tôi
Lần nữa
Có điều gì vụng dại
Thời chiến tranh
Thanh niên
Đã mất quá nhiều

Nhìn lại tôi
Suốt đời thất thểu hoang mang
Cờ đâu có phất
Cho gió thổi bay bay

Xin Chúa thứ tha
Tôi lỡ có một đời
Để em có một thời
Mất niềm hy vọng

Đến bây giờ
Cuối chiều tan nát
Chẳng biết tội nghiệp cho ai

Chim trời cá nước
Xa em mất
Tôi biết đâu tìm


Sài Gòn và em

Tóc em còn xanh
Xanh lắm
Trưa Sài Gòn
Gió nắng bay bay

Lạy trời
Đừng mưa to gió lớn
Để em đi
Đẹp đẽ lối về

Anh trong nỗi nhớ
Từng ngày yêu em


Giờ tan ca

Giờ tan ca
Những công nhân
Lảo đảo
Trên phố nhỏ
Đường chiều

Giờ tan ca
Những công nhân
Tản dần vào
Những ngõ hẻm con đường

Chợ chiều
Cá mú
Rau cỏ rẻ nhất
Công nhân
Ngồi chồm hổm
Chọn mua

Bữa cơm chiều
Dọn ra
Họ nhìn nhau
Vui buồn gì
Chẳng biết
Đêm đến
Rồi cũng ngủ đi
Thăm thẳm bầu trời xa

Có gì khác không

Ngày mai những công nhân
Vẫn lảo đảo
Trên phố nhỏ
Đường chiều
                                    19/3/2010


Một trang thơ

Bao nhiêu thơ
Im chờ
Trong ngăn kéo
Héo hon

Trên mặt bàn
Buổi sáng
Chiếc muỗng
Khuấy ly cà phê
Leng keng
Tiếng kèn đồng
Của nhà ai cuối phố
Rúc lên
Một nhịp buồn
Đưa tiễn
Một trang thơ dang dở
Bên ly cà phê
Mù mờ

Mưa ngoài trời
Mưa.


Chú ý:
Đọc thơ Phố Phố Sài Gòn hãy liên tưởng đến các thi sĩ siêu thực Âu Châu như Jacques Prevert hay Andre Breton, hay Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền
                                                                                                            Trần Tuấn Kiệt .