Tài liệu Sử ký , Thần Thọai
Trong quyển ‘’ Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa ‘’ ( Trung Hoa tùng thư ) , La Hương Lâm, gần đây có viết :
‘’ Thời cổ , văn hóa của Việt tộc rất đáng được người ta chú ý là sự chế tạo Trống đồng với cách sử dụng và Trống đồng của Việt tộc lại phải lấy kiểu Lạc Việt làm thịnh nhất , cho nên gọi là Lạc Việt đồng cổ .
‘’ Các học giả và quan chức Trung Quốc chú ý đến vật ấy bắt đầu từ thời Hậu Hán . Sách Hậu hán thư , quyển 54 , mục truyện Mã Viện chép :’’ Viện thích cưỡi ngựa , khéo phân biệt ngựa có danh tiếng . Đi đánh chiếm Giao chỉ , lượm được trống đồng Lạc Việt , bèn đúc làm con ngựa kiểu ‘’
Trống đồng của Việt tộc thời cổ là do thợ bản xứ chế tạo lấy chứ không phải thợ của bộ lạc khác hoặc thuê thợ Tàu , xét đồ đồng của Tàu trước thời Tần , Hán tuyệt không thấy sự trù tạo trống đồng , và các dân tộc lân cận đều không thấy sự trù tạo trống đồng làm đồ quí , đủ biết trống đồng hòan tòan của Việt tộc làm ra vậy . đến như dụng ý của người Việt chế tạo trống đồng để làm gì , thì theo học giả xưa ghi chú đại khái đều bảo là để giúp người thủ lĩnh có thế lực hiệu triệu quần chúng cùng là để hoan nghênh Thần Thánh , xua đuổi bệnh tật ma quỉ và cầu sách . Sách ‘’ Tùy Thư Địa lý Chí ‘’ viết :
Đồng cổ dữ man ca
Trống đồng với ca Mường
Người Nam tế lễ thường .
Nhưng khởi thủy thời cổ xưa khi Việt tộc chế tạo ra Trống đồng còn có quan hệ với tín ngưỡng ma thuật như thờ Thần Sấm , Thần Mưa . Xét trên mặt Trống đồng thường có đúc hình thể ếch , nhái hoặc thiền thừ ( cóc ) , e rằng nhân cầu mưa mà làm như vậy . Ngày nay ở các đất Hoa Nam , người ta đều nhận ếch , nhái hoặc cóc làm động vật trời mưa , bảo rằng cóc ở trong hang ra thì ắt trời mưa to . Như thế vì nhân lúc trời sắp mưa tự nhiên có triệu chứng báo trước , cóc và ếch nhái có cảm giác mau lẹ , tìm cách tránh nước xâm nhập cho nên bỏ hang trước mà đi . Thời ban sơ nhân dân trọng vụ thuật Thần giao cách cảm , thấy cóc ra thì có mưa , mới tin cóc nhái có quan hệ với nước mưa . Muốn cho trời mưa họ khiến cho cóc nhái xuất hiện . Thời xưa Việt tộc hay miêu duệ đúc tạc hình cóc nhái trên mặt trống đồng theo lý giả ma thuật của người ban sơ mà suy ra ấy là muốn dùng để cầu mưa vậy .Nhưng Việt tộc thời xưa chế tạo trống đồng bắt đầu từ tín nhiệm về Thần Sấm , Thần Sét từ tiền nhân họ từ thời thượng cổ , xét cổ tích dân tộc nhà Hạ đối với Sấm và Trống có tín nhiệm liên hệ với nhau thì biết rằng nguyên lai tự đâu . Việt tộc đối với tín nhiệm về thần Sấm có hai sự kiện để làm bằng chứng :
1 . Dân người Lê ( v) ở đảo Hải Nam bảo thời cổ xưa lòai ngừơi do Sấm nuốt trứng rắn mà sinh ra . Và nguyên lai vẽ mặt của chúng cũng do Lôi công ( Ông Sấm ) lập pháp lệnh cho hai chị em người kết hôn lúc ban sơ . Truyền thuyết của dân Lê đảo Hải Nam kể rằng : ‘’ Thời thượng thượng cổ , trời đất hỗn mang , sinh vật trên trái đất hết thảy bị vùi dập , nhân lọai cũng chung một tai ách ấy , chỉ còn lại một chị với một em nương nhau mà sống . Nhưng tình chị em thân như chân tay , rút cuộc không thể lấy nhau được . Bấy giờ chị tìm chồng một đường , em đi tìm vợ một nẻo , kẻ đi về Đông , kẻ đi về Tây , lâu rồi mà chẳng còn gặp lại được ai , rút cuộc hai chị em lại gặp nhau . Một lần , hai lần đều thế . Thần Lôi Công thấy thế hiện thân xuống gọi người em bảo : nay ta ở lại đây , hai ngươi có thể kết làm vợ chồng được . Người em bảo : Chị em không thể lấy nhau được , làm thế bị Ông Sét đánh chết . Lôi Công nói : Chính ta là thần Sét , quyết không đánh các ngươi . Người em khăng khăng nhất định không nghe lời , cho là không thể được , lại bỏ đi tìm vợ . Bấy giờ Lôi Công mới đem vẽ đen mặt người chị , nhưng lần này bôi mặt nên không còn nhận biết là ai mới đến cầu hôn . Từ đấy chị em lấy nhau mới sinh đẻ đông đúc ra giống người Lê ngày nay ‘’
2 . Chứng cứ thứ hai về tín nhiệm Thần Sấm của Việt tộc là tục rước lửa ngày 24 tháng 6 của giống người Cức-di đất Xuyên , Diều . Họ học tập , ban đêm đốt đuốc dong chơi , vui đùa suốt sang . Theo Vương Thành Trúc , tạp đàm về dân tục miền Phúc kiến , An Khê thì ngày 24 tháng 6 , cả một ngày hôm ấy , tức là ngày đản nhật của Lôi Công , rất nhiều nông gia trong dân gian cúng bái . Lúc cúng thì cúng cả Đức Mẫu Điện Quang , đấy là tiết rước lửa của dân Cúc-di kỷ niệm Lôi Công mà cầm đuốc rong chơi , cũng tượng trưng cho sấm chớp .
Sấm nuốt trứng rắn , Sấm sai vẽ mặt , cùng tục rước lửa chơi đều đều là tục truyền không phải của hệ thống văn hóa Trung Hoa truyền bá ra . Đấy là tục truyền của Việt tộc thời cổ xưa để lại hay biến thái đi vậy . Kỷ niệm Ông Sấm thì luôn luôn cùng với tín nhiệm trống đồng liên đới . Điều ấy phù hợp với đọan sách Luận Hành , Thiên Lôi Hư của Vương Sùng .
‘’ Vẽ một người với dung mạo lực sĩ gọi là Lôi Công , tay phải cho đeo trống , tay trái cho dương cùi đánh trống , ý nghiã ngụ rằng : tiếng sấm ầm ầm là tiếng trống liên hồi ‘’
Lại còn lời của Vân Động Khê ghi rằng : ‘’ Người ta truyền tụng Trống đồng có Thần . Trống của một động này bị người của động kia lấy đi , đêm thấy có hổ xuất hiện cắn người , đuổi theo thì thấy cái trống , đem trả lại thì được yên tĩnh ‘’
Đến như mặt trống có nhiều nét chạm theo hình sấm chớp thì lại thấy rằng thời cổ
Người Việt đúc trống đồng không phải không có ngụ ý ký thác vậy , thuật theo Bách Việt nguyên lưu giữ văn hóa . Trung Hoa trùng thư , tháng 12 năm 44 dân quốc , trư giả giáo thụ La Hương Lâm .
Nay hãy xem xét thư tịch Việt Nam liên quan đến đề tài trống đồng hay đồng cổ văn minh của Đông sơn : Sách ‘’ Đại Nam Nhất Thống Chí ‘’ tập thượng , mục tỉnh Thanh Hóa , nói đến các đền miếu , có nói đến Đền thờ Thần Trống đồng ‘’ Đồng Cổ Thần từ ‘’ ‘’ Ở trên núi Đan Nê , thuộc huyện An Định ( Có tên gọi là Núi Khả Lao ) , ngày xưa vua Hùng vương đi đánh Chiêm Thành đóng quân ở Núi Khả Lao , đêm mơ thấy Thần báo mộng bảo vua rằng :
- Xin có cái trống đồng và dùi đồng , giúp nhà vua thắng trận phen này .
Đến lúc ra trận thì thấy trên không văng vẳng có tiếng Trống đồng , rồi quả nhiên vua được tòan thắng . Vua bèn sắc phong làm Đồng Cổ Đại Vương .
Đời Vua Thánh Tôn nhà Lý , khi còn làm Thái tử ( 1020) vâng mạng đi đánh Chiêm Thành , đêm mơ thấy một người mặc áo nhung , tay cầm bảo kiếm , tâu rằng :
- Tôi là Thần Núi Đồng Cổ xin được đi theo để lập công cùng Thái tử . Tới khi bình được giặc , liền lập miếu để thờ . sau khi Thái tử lên ngôi , lại mộng thấy Thần mang bài thơ để bào cho biết là có ba vị Vương định gây sự biến , rồi sau quả nhiên có thực sự . Nhân thế , liền phong làm chức ‘’ Thiên Hạ Minh Chủ ‘’ , nghĩa là ‘’ Chủ đồng minh của thế giới ‘’ , thăng lên làm Thượng Đẳng Thần và hàng năm bắt đắp đàn ở trước cửa đền , sai các quan đến lễ và đọc lời tuyên thệ như sau :
‘’ Thần tử chi đạo , hệ hồ cương thường , vi tử bất hiếu , vi Thần bất trung , Thần minh mạc giám , diễn điệt kỳ môn ‘’
‘’ Đạo làm tôi con cốt ở luân lý cương thường . Làm con không hiếu với cha mẹ . Làm bầy tôi không hết lòng với nước với vua , xin Thần minh ngầm xét tru diệt cả nhà ..’’
Khỏang đầu nhà Lê Trung Hưng (1561 ) , quân Mạc xâm chiếm các huyện Vĩnh Ninh , An Định , thuyền quân nhà Lê đóng ở thượng lưu sông Mã , tướng nhà Lê liền sai người trinh sát , mới biết là tiếng trống do tự núi Khả Lao phát ra . Đến sang hôm sau quân Lê theo đánh quân Mạc , trong khi giao chiến , bỗng có nước trào dâng lên rất mạnh , quân nhà Lê bèn thừa thế dong buồm thẳng tiến , khí thế hăng hái bội phần , làm cho quân Mạc phải thua bỏ chạy .
Khoảng năm Hoằng Định 9 đời vua Lê Kính Tôn – 1600 ) trong tờ sắc phong Sơn Thần có câu : ‘’ Trên sông sóng gió giúp cho trận thắng của quan quân ‘’ tức là truyện này vậy .
Khỏang năm Cảnh Hưng ( đời Lê Hiển Tôn – 1740 ) thường thấy có các tàn vàng hiện ngay trên quán triều thiên , suốt ba ngày mới tan . Lại có một hôm vào buổi gần chiều tối , trong miếu bỗng có mây đen lại từ khắp phía , rồi mưa gió nổi lên đùng đùng , có người ở từ đằng xa nom lại thấy con rồng đen từ trên trời quanh co lượn xuống , đến sáng sớm mai ra xem ngòai miếu thì có vẩy rồng vẫn còn rãi rác trên sân miếu . Đó đều là những linh tích hiển nhiên nhiên nhiều người cùng biết . Trải qua các đời nhà Lý và Lê , mỗi khi vào khỏang đầu năm xuất quân , các tướng sĩ hội thề thì lại rước Thần để chứng giám cuộc lễ . Quan Thái Phó triều Lê là Nguyễn Văn Khải nhân có bài thơ sau :
Đài phong củng chiếu thủy loan hòan
Dục tú chung tinh tại thử gian
Đàn thượng phiên biểu tiêu hạn bạt
Không trung xao cổ tẩu cuồng man
Qui bi thạch triện kinh sương lục
Phượng trát kim chương chiếu nhất đan
Kim cổ diệt canh kỳ kỷ cục
Lẫm nhiên chính khí cựu gian nan
Tạm dịch :
Non Đài chầu lại nước bao vây
Chung đúc anh linh tại chốn này
Bầu giốc trên đàn mưa tưới khắp
Trống khua trời thẳm giặc tan bay
Bia rùa , triện đá ngàn sương biếc
Trát phượng , niêm vàng chói nắng gay
Kim cổ cuộc cờ bao xóa đổi
Lẫy lừng chính khí nước non đầy .
Trong đền có một cái trống đồng , nặng ước 100 cân , đường kính hơn 1 thước 5 tấc , cao hơn 2 thước , trong rỗng , không có đáy , bên tai hơi khuyết , trên mặt có 9 vòng khuyên , lưng thắt mà rốn kín , bốn bên có giây khắc chữ thập ngoặc , có văn như lối chữ khoa dầu nhưng lâu ngày không thể trông thấy rõ .
Tương truyền khi Tây sơn vào đánh miền đó , cho chở cái trống ấy vào Phú xuân . sau đó người huyện Hậu Lộc lại bắt được ở nơi bến song , rồi báo về tỉnh , tỉnh bắt đem nộp trả về đền . Hiện nay vẫn còn tại đó .
Xét trong Hậu Hán Thư có nói , khi Mã Viện sang Giao chỉ có được một cái trống của Lạc Việt . Lại trong Quảng Châu Ký có nói : ‘’ Tục mán , Mèo đúc đồng làm trống , càng cao càng quý , rộng chừng hơn trượng . Khi mới đúc xong treo ở giữa sân . đặt tiệc rượu mời con trai , con gái các nhà hào phú tới lấy vàng bạc đúc những cành thoa lớn để gõ vào trống , rồi những cành thoa ấy lưu lại cho chủ nhân ‘’ . Và trong Tùy thư cũng nói :’’ Các họ Mán hay đúc những trống đồng to , khi có việc đánh trống đó gọi là Đô lão . Trống đúc cao chừng ¾ thước , có mặt không có đáy , tiếng kêu cũng không to lắm . Gọi tên là trống Chư cát , cho là Chư cát Khổng Minh chế ra vậy . có thể khi Khổng Minh hùng mạnh Hạch cho đúc trống đồng theo xuống để hạ khí dân Nam .
‘’ Trong sách Minh Nhất Thống Chí – lại cho là cái chiêng của Chư Cát khi đi đánh man di . Xem đó thì trống đồng đã có từ thời Đông Hán , mà không phải bắt đầu từ thời Khổng Minh mới có ‘’ ( Đại Nam Nhất Thống Chí – tỉnh Thanh Hóa , tập Thượng , Văn Hóa Tùng Thư tập 4 )
Lê quí Đôn cũng chép trong tác phẩm ‘’ kiến văn tiểu lục ‘’ của ông : ‘’ Vua Thái tong nhà Lý dựng miếu thờ Thần Đồng Cổ Sơn ở đằng sau chùa Thành thọ . hàng năm cứ đến ngày mồng 4 tháng 4 lập một đàn ở trước miếu này , rồi dàn binh lính , đọc lới thề để quần thần cùng thề . đến vua Nhân Tông thì họp quân nhân trong thiên hạ thề ở sân Long Trì .
‘’ Vua Nhân Tông lại định lệ : hàng năm cũng theo ngày mồng 4 tháng 4 , sáng sớm hôm ấy đức vua ngự cửa bên điện Đại Minh , quần thần đều vận binh phục tới lễ hai lễ rồi lui ra . Các quan đi đều có xe ngựa , binh lính theo đi ra lối cửa Tây thành rồi đến hội thề ở miếu Đồng Cổ Thần . Quan Kiểm chánh đọc lời thề rằng :
‘’ Vi Thần tận trung vi quan thanh bạch ‘’
‘’ Làm bầy tôi thề hết lòng , làm quan thề trong sạch ‘’
Thề xong quan tể tướng kiểm điểm từng người , nếu ai vắng mặt phải phạt 5 quan tiền .
Lễ này thời ấy cho là một lễ rất thịnh vậy ! ‘’
( Kiến văn Tiểu lục , trang 113-114 , Lê Quí Đôn – bản dịch Lê mạnh Liêu – tủ sách dịch thuật 1963 )
( Đền Đồng Cổ - thanglong.cinet.com )
---------------------
Tư liệu về 18 đời Hùng Vương.
Tư liệu về 18 đời Hùng Vương.
(tài liệu của Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá được in trong tạp chí “Nguồn Sáng“ số 23 trong dịp lễ Hội Giỗ Tổ Hùng Vương 1998. )
Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá viết:
Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm các truyền thuyết, thư tịch cổ, các ngọc phả các xã quanh vùng có đền thờ các Vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ bảo tồn bảo tàng, Bộ Văn Hóa (số hiệu HTAE 9) thì các tài liệu này không ghi chép là 18 đời Vua Hùng mà lại ghi là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời Vua, có cả năm Can, Chi lúc sinh và lúc lên ngôi.
Các đời Vua trong một chi đều lấy hiệu của Vua đầu chi ấy.
Mười tám chi ấy như sau:
1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).
2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương,272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.
5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.
7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
8. Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
10. Chi Ất - Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, 3 đời, 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr.TL)
11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 trTL Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.
15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đờianh Thân (661 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu
16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạc tướng quân đánh tan giặc Man, Vua phong là Chuyển Thạch Tướng Đại Vương - ‘NgườI anh hùng làng Dóng’ Cao Xuân Đỉnh (NxbKHXH 1969 trg 126-130), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 3 đời vua, lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu
17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu
18. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đờI vua (có lẽ 3 đời) vì ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì - Hà Nội có bài vị « Tam Vị Quốc Chúa », ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.
Tổng cộng là 2621 năm từ 2879 đến 258 tr. TL
Như vậy, họ Hồng Bàng, trị vì nước Văn Lang, với vương hiệu Hùng Vương, không phải chỉ có 18 đời (18 ông vua) mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua.
Điều này giải thích hợp lý sự tồn tại gần 3000 năm của thời đại Hùng Vương.
Đền Hùng hiện nay trong ngôi đền chính, có một bài vị chung, thờ các vị Vua Hùng, có hàng chữ « Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng Thị thập bát thế thánh vương, thánh vị ». Do tục thờ cúng tổ tiên, chỉ chờ vị khai sáng đầu tiên, nên chữ « Thập bát thế » có thể hiểu là 18 Vương hiệu của các vị Tổ đầu tiên của 18 chi Hùng Vương, đã thay nhau cầm quyền trên đất nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của người Việt chúng ta ngày nay.
Thế thứ các Vua Hùng:
Mỗi chi Hùng Vương gồm nhiều đời con, cháu... kế ngôi, lấy tên hiệu và tên huý của đời Vua đầu chi chung cho các Vua tiếp theo trong chi đó. Triều đại Hùng Vương kéo dài 2621 năm (từ năm 2879 TCN đến 258 TCN), gồm khoảng 100 đời Vua.
1. Đức Kinh Dương Vương - Lộc Tục, tức Lục Dục Vương : sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi , Hai ngàn tám trăm bảy chín (2879 tcn), trị vì trong 86 năm , từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).
2. Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân -Di Lặc - Phật Tổ :năm ra đời :18/3/Bính Thìn (2825 tr. TL), năm 33 tuổi lên ngôi, hiệu Hùng Hiền Vương , 269 năm tại ngôi từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL) , Thủ lĩnh khoảng độ mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế)
3. Hùng Lân - Hiệu Hùng Quốc Vương : sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL), lên ngôi năm 18 tuổi, trị vì 271 năm từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL, truyền khoảng hơn 10 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
4. Bửu Long - hiệu Hùng Hoa Vương : lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), trị vì trong 342 năm từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL), kéo dài hơn mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.
5. Bửu Lang - hiệu Hùng Hy Vương : sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi , trị vì trong 199 năm từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL) ,Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ . Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
6. Long Tiên Lang - hiệu Hùng Hồn Vương: sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL) , lên ngôi khi 29 tuổi , trị vì trong 80 năm từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL) ,Thủ lĩnh truyền kế hai đời , Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.
7. Quốc Lang - hiệu Hùng Chiêu Vương : sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, trị vì 200 năm từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL) ,kéo dài 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
8. Vân Lang - hiệu Hùng Vi Vương : sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi , trị vì 99 năm từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL), 5 đời kế thừa . Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
9. Chân Nhân Lang huý – hiệu Hùng Định Vương: sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi năm 45 tuổi, trị vì 80 năm từ 1331 đến 1252 tr.TL , truyền thừa 3 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
10. Hoàng Long Lang - hiệu Hùng Uy Vương :37 tuổi lên ngôi , trị vì 90 năm từ 1251 đến 1162 tr.TL ,truyền thừa 3 đời
11. Hưng Đức Lang - hiệu Hùng Trinh Vương : sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, trị vì 107 năm từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL), truyền được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
12. Đức Hiền Lang - hiệu Hùng Vũ Vương : sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, 85 năm trị vì từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL) ,3 đời làm Thủ lĩnh . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
13. Tuấn Lang - hiệu Hùng Việt Vương : sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), 23 tuổi lên ngôi, 105 năm nắm quyền từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL), truyền 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
14. Viên Lang - hiệu Hùng Anh Vương : sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, 99 năm trị vì từ 853 đến 755 trTL, trải qua 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.
15. Cảnh Chiêu Lang - hiệu Hùng Triệu Vương : sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi , 94 năm làm thủ lĩnh từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL), cả thảy 3 đời Cha Con . Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu
16. Đức Quân Lang -hiệu Hùng Tạo Vương, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 91 năm trị vì từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL), 3 đời truyền nhau . Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu
17. Bảo Quang Lang - hiệu Hùng Nghi Vương : sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) ,9 tuổi lên ngôi, 159 năm trị vì từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL) , được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu
18. Huệ Lang - hiệu Hùng Duệ Vương : sinh năm Canh Thân (421 tr. TL) , 14 tuổi lên ngôi, trị vì 150 năm từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL) , truyền khoảng 6 đời . Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.
sau đó cơ đồ Văn Lang được trao lại cho Thục Phán , cháu họ của vua Hùng.
1. Đức Kinh Dương Vương - Lộc Tục, tức Lục Dục Vương : sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi , Hai ngàn tám trăm bảy chín (2879 tcn), trị vì trong 86 năm , từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).
2. Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân -Di Lặc - Phật Tổ :năm ra đời :18/3/Bính Thìn (2825 tr. TL), năm 33 tuổi lên ngôi, hiệu Hùng Hiền Vương , 269 năm tại ngôi từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL) , Thủ lĩnh khoảng độ mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế)
3. Hùng Lân - Hiệu Hùng Quốc Vương : sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL), lên ngôi năm 18 tuổi, trị vì 271 năm từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL, truyền khoảng hơn 10 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.
4. Bửu Long - hiệu Hùng Hoa Vương : lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), trị vì trong 342 năm từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL), kéo dài hơn mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.
5. Bửu Lang - hiệu Hùng Hy Vương : sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi , trị vì trong 199 năm từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL) ,Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ . Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
6. Long Tiên Lang - hiệu Hùng Hồn Vương: sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL) , lên ngôi khi 29 tuổi , trị vì trong 80 năm từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL) ,Thủ lĩnh truyền kế hai đời , Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.
7. Quốc Lang - hiệu Hùng Chiêu Vương : sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, trị vì 200 năm từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL) ,kéo dài 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
8. Vân Lang - hiệu Hùng Vi Vương : sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi , trị vì 99 năm từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL), 5 đời kế thừa . Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
9. Chân Nhân Lang huý – hiệu Hùng Định Vương: sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi năm 45 tuổi, trị vì 80 năm từ 1331 đến 1252 tr.TL , truyền thừa 3 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
10. Hoàng Long Lang - hiệu Hùng Uy Vương :37 tuổi lên ngôi , trị vì 90 năm từ 1251 đến 1162 tr.TL ,truyền thừa 3 đời
11. Hưng Đức Lang - hiệu Hùng Trinh Vương : sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, trị vì 107 năm từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL), truyền được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
12. Đức Hiền Lang - hiệu Hùng Vũ Vương : sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, 85 năm trị vì từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL) ,3 đời làm Thủ lĩnh . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
13. Tuấn Lang - hiệu Hùng Việt Vương : sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), 23 tuổi lên ngôi, 105 năm nắm quyền từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL), truyền 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
14. Viên Lang - hiệu Hùng Anh Vương : sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, 99 năm trị vì từ 853 đến 755 trTL, trải qua 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.
15. Cảnh Chiêu Lang - hiệu Hùng Triệu Vương : sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi , 94 năm làm thủ lĩnh từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL), cả thảy 3 đời Cha Con . Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu
16. Đức Quân Lang -hiệu Hùng Tạo Vương, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 91 năm trị vì từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL), 3 đời truyền nhau . Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu
17. Bảo Quang Lang - hiệu Hùng Nghi Vương : sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) ,9 tuổi lên ngôi, 159 năm trị vì từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL) , được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu
18. Huệ Lang - hiệu Hùng Duệ Vương : sinh năm Canh Thân (421 tr. TL) , 14 tuổi lên ngôi, trị vì 150 năm từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL) , truyền khoảng 6 đời . Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.
sau đó cơ đồ Văn Lang được trao lại cho Thục Phán , cháu họ của vua Hùng.
Danh sách 100 người con trai của Lạc Long Quân - Âu Cơ
Lân Lang làm vua, 49 người con còn lại theo cha Lạc Long Quân là:
Xích Lang,
Quynh Lang,
Mật Lang,
Thái Lang,
Vĩ Lang,
Huân Lang,
Yên Lang,
Tiên Lang,
Diên Lang,
Tích Lang,
Tập Lang,
Ngọ Lang,
Cấp Lang,
Tiếu Lang,
Hộ Lang,
Thục Lang,
Khuyến Lang,
Chiêm Lang,
Vân Lang,
Khương Lang,
La Lang,
Tuần Lang,
Tân Lang,
Quyền Lang,
Đường Lang,
Kiều Lang,
Dũng Lang,
Aác Lang,
Tảo Lang,
Liệt Lang,
Ưu Lang,
Nhiễu Lang,
Lý Lang,
Châm Lang,
Tường Lang,
Chóc Lang,
Sáp Lang,
Cốc Lang,
Nhật Lang,
Sái Lang,
Chiêu Lang,
Hoạt Lang,
Điển Lang,
Thành Lang,
Thuận Lang,
Tâm Lang,
Thái Lang,
Triệu Lang,
Ích Lang.
.
50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là:
Hương Lang,
Kiểm Lang,
Thần Lang,
Văn Lang,
Vũ Lang,
Linh Lang,
Hắc Lang,
Thịnh Lang,
Quân Lang,
Kiêm Lang,
Tế Lang,
Mã Lang,
Chiến Lang,
Khang Lang,
Chinh Lang,
Đào Lang,
Nguyên Lang,
Phiên Lang,
Xuyến Lang,
Yến Lang,
Thiếp Lang,
Bảo Lang,
Chừng Lang,
Tài Lang,
Triệu Lang,
Cố Lang,
Lưu Lang,
Lô Lang,
Quế Lang,
Diêm Lang,
Huyền Lang,
Nhị Lang,
Tào Lang,
Ngyuệt Lang,
Sâm Lang,
Lâm Lang,
Triều Lang,
Quán Lang,
Cánh Lang,
Ốc Lang,
Lôi Lang,
Châu Lang,
Việt Lang,
Vệ Lang,
Mãn Lang,
Long Lang,
Trình Lang,
Tòng Lang,
Tuấn Lang,
Thanh Lang.
trích Đại Việt Sử Ký Tòan thư
Kỷ Thuộc Tùy Đường
Quý Hợi, [603], (Tùy Nhân Thọ năm thứ 2). 158 Lưu Phương bắt được tướng cũ của Hậu Nam Đế, cho là gian ác, đều chém cả.
Ất Sửu, [605], (Tùy Dạng Đế Quảng, Đại Nghiệp năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, Lưu Phương mới dẹp yên nước ta, bầy tôi nhà Tùy có người nói nước Lâm Ấp có nhiều báu lạ. Vua Tùy bèn cho Phương làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản, đi kinh lược nước Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ sử Khâm Châu là Nịnh Trường Chân đem quân bộ và quân kỵ hơn một vạn xuất phát từ Việt Thường159 . Phương thân dẫn bọn đại tướng quân Trương Tốn đem thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận Nhật Nam ; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh)160 . Tháng ấy quân đến cửa biển. Tháng 3, vua Lâm Ấp là Phạn [1b] Chí sai quân ra giữ nơi hiểm yếu, bị Lưu Phương đánh tan chạy. Quân của Phương qua sông Chà Lê. Quân Lâm Ấp cưỡi voi lớn từ bốn mặt kéo đến, quân của Phương đánh không lợi bèn đào nhiều hố nhỏ, phủ cỏ lên trên, cho quân khiêu chiến, đang đánh giả thua chạy. Quân Lâm Ấp đuổi theo, voi phần nhiều sụp hố ngã nhào, nhốn nháo kinh hãi, quân trở nên rối loạn. Phương cho dùng nỏ bắn voi, voi lùi chạy, xéo giẫm vào hàng trận. Phương nhân đó cho quân tinh nhuệ đuổi theo. Quân Lâm Ấp thua to, bị bắt, bị chém kể hàng vạn. Phương tiến quân đuổi theo, mấy trận đều được cả, qua phía nam cột đồng Mã Viện, đi tám ngày nữa đến quốc đô Lâm Ấp. Mùa hạ, tháng 4, Phạn Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào thành lấy được 18 bộ thần chủ trong miếu đều đúc bằng vàng (tức là 18 đời vua), khắc đá ghi công rồi về. Binh sĩ thũng chân, mười phần chết đến bốn năm phần. Phương cũng bị ốm, chết dọc đường.
trích từ : vnthuquan
Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên... soạn thảo (1272 - 1697).
Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992).
Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội (Hà Nội) ấn hành (1993).
--------------
Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà. Thời Hán Vũ Đế, thừa tướng nước Nam Việt là Lữ Gia không phục, giết sứ Hán là bọn An Quốc, Thiếu Quý(1). Hán Vũ Đế sai tướng là bọn Lộ Bác Đức, Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước, phân đất cho các quan cai trị.
Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn là những xứ vắng vẻ không có người. Khi bộ hạ đông đúc, họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu, cho nên họ mang danh hiệu ấy.
Trích từ lsvietnam.infor
Danh sách các đời tổ tiên của các triều vua Việt Nam
| |
---|---|
Nhà Đinh |
Đinh Công Trứ
|
Nhà Tiền Lê | |
Nhà Lý | |
Nhà Trần |
Trần Kinh · Trần Hấp · Trần Lý · Trần Thừa · Trần Tự Khánh · Trần Thủ Độ
|
Nhà Hồ |
Hồ Hưng Dật · 12 đời chưa xác định · Hồ Liêm · 4 đời chưa xác định
|
Nhà Lê sơ | |
Nhà Mạc |
Cơ Chất Khiết · nhiều đời chưa xác định · Mạc Hiển Tích · Mạc Dao · Mạc Thúy · Mạc Tung · Mạc Bình · Mạc Hịch
|
Nhà Lê Trung hưng (từ Anh Tông) |
Lê Trừ · Lê Khang · Lê Thọ · Lê Duy Thiệu · Lê Duy Khoáng
|
Nhà Tây Sơn | |
Nhà Nguyễn |
No comments:
Post a Comment