Wednesday, 7 August 2013

3- TÍN NGƯỠNG THẦN ĐẠO VIỆT NAM !!!


TÍN NGƯỠNG THẦN ĐẠO VIỆT NAM

    Xích Quỷ : Xích là màu đỏ , màu của lửa , cũng là màu được dùng để chỉ phương Nam biểu tượng cho lòng nhân ấm áp tình người . Thành ngữ xưa có câu : '' Nam phương hỏa đức thịnh '' , nghĩa đen là phương Nam thịnh về đức lửa . Nghiã bóng là nam phương giàu lòng nhân . Thần sao Nam tào được giữ gìn sổ sinh ( sổ ghi về sự sống , tuổi thọ của mọi người trên mặt đất ) là một vị văn quan mặt đỏ .
     
Đọan Trung Dung sau đây nói minh bạch về lòng nhân của phương Nam : Tử Lộ vấn cường . Tử viết '' Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư ? Ức nhi cường dư ? Khoan dung dĩ giáo , bất báo vô đạo , nam phương chi cường dã , quân tử cư chi . Nhậm kim cách , tử nhi bất yếm , Bắc phương chi cường dã , nhi cường dã cư chi '' 

Nghiã là : Thầy Tử Lộ hỏi về sức mạnh . Khổng Tử nói : '' Sức mạnh của phương Nam ư ? Đem lòng rộng lượng hiện hòa để giáo hóa người , dẫu đối với kẻ vô đạo cũng không báo thù báo óan , đó là sức mạnh của phương Nam . Ngừơi quân tử ở đấy , mặc giáp cầm gươm , xông pha đánh giết , đến chết cũng không ngán , đó là sức mạnh của phương Bắc , Người cường bạo ở đấy ''

     Qủy : Thiên lễ vận nơi Lễ ký có ghi câu '' Trình bày dâng lên qủy thần '' , Lại chú giải : '' qủy là nơi linh hồn tinh anh trở về ''
      Thiên Đoan Thiên nơi sách Liệt tử có viết : '' Các tinh thần lìa hình thể đều trở về nơi chân thực nên gọi là quỷ , Nơi qủy trở về là nơi cư ngụ chân thật của mình ''.
     Qủy còn là tên vị sao sắc trắng trong nhị thập bát tú .
     Như vậy , Xích Quỷ có nghĩa là '' Khi sống , lấy đức nhân mà hành xử việc đời . Khi chết trở về nơi chân thực , vĩnh cửu '' . Đồng thời cũng hàm chủ ý nghĩa về địa dư : Nước ở phươngNam , sao Qủy xác định địa giới .
     Văn Lang :  Chữ Văn có nhiều ý nghiã phức tạp và khác biệt , Chúng tôi chọn nghĩa chữ '' Văn '' nơi sách Sử Ký và sách Luận Ngữ .
     Theo '' Sử ký thụy pháp '' ( chương viết về phép đặt tên thụy  , tức tên mà người sống xét phẩm cách của người chết mà đặt cho ) có ghi : '' Kinh vĩ thiên địa viết văn . Đạo đức bác văn viết văn . từ huệ ái dân viết văn . Mẫn dân huệ lễ viết văn . Nghĩa là : '' Dọc ngang trời đất gọi là văn . Đạo đức , nghe rộng gọi là văn . Chăm học , ưa hỏi gọi là văn . Hiền từ , thương xót yêu dân gọi là văn . Ban thưởng tước vị cho dân gọi là văn '' .
   
 Sách Luận Ngữ , Chương Tử Hân  có ghi lời Khổng tử khi Ngài bị người Ấp Khuông , một ấp thuộc nước Vệ đời Xuân Thu vây khốn vì ngộ nhận Ngài là ác nhân Dương Hổ : '' Văn vương ký một , văn bất tại tư hồ ? Thiên chi tương táng tư văn giã , hậu tử giả , bất đắc dư ư tư văn giã . Thiên chi vị táng tư văn giã . Khuông nhân kỳ như dư hà ? '' Nghĩa là : '' Văn vương đã chết , '' văn '' không do ta gánh vác hay sao ? Nếu trời muốn chôn vùi '' tư văn '' thì kẻ chết sau Văn vương là ta không được tham dự vào ''tư văn'' . Nếu trời chưa muốn chôn vùi '' tư văn'' thì người ấp Khuông làm gì được ta ? '' Tư văn theo Nho học là Đạo Trời . Chu Hy , học giả đời Tống chú thích : '' Đạo chi hiển giả vị chi văn '' nghĩa là đạo trời sáng tỏ gọi là văn '' .

     Lang : chữ ''Lang '' gồm chữ '' lương '' là lương thiện bên bộ '' ấp '' là vùng đất . Do vậy , lang là vùng đất của người lương thiện hay đất nước của người lương thiện .
    
 Văn Lang , quốc hiệu thời các Vua Hùng , hàm chứa ý nghiã : Vua mở tấm lòng giữa vùng trời đất , là bậc đạo đức cao nghe nhiều biết rộng . 

Đối với mình thì cố gắng học hỏi , mở mang trí thức . đối với dân thì hiền từ , yêu thương và biết giữ lễ với dân , lại có lòng xót xa nỗi vất vả mà ngừơi dân gánh chịu nên sáng suốt ban thưởng cho người có công . Do vây , đã tạo nên đất nước trong đó có người dân sống đời lương thiện .


Sử là bộ môn khoa học nhân văn , đòi hỏi phải trung thực khách quan , ghi chép sử kiện của từng giai đọan một cách đầy đủ . Óai ăm , khi viết sử nước nhà , không ai có thể gạt bỏ hòan tòan tình cảm yêu ghét . càng óai ăm hơn , sử kiện lịch sử lại không thể tái thiết để thể nghiệm kiểm chứng . 

Hậu thế đọc sử không nhiều thì ít , có những điều thắc mắc hòai nghi . Do vậy , sử luận cần phải có . Nhưng , những bộ óc luận bàn lịch sử cũng không thể tuyệt đối khách quan . Và  cái vòng '' lẩn quẩn '' không có điểm ngừng ấy hẳn nhiên làm nảy sinh những quan điểm , những kết luận dị biệt , đôi khi mâu thuẫn . 

Nơi đây , chúng tôi đặt nặng về sử kiện hơn là sử luận , nhằm mục đích đóng góp cùng độc giả những tài liệu quý giá có liên quan hệ trọng đến gốc nguồn xa xưa của dân tộc Việt . 

Đặc biệt , những tài liệu này được lưu trữ tại Trung Hoa , một nước luôn tìm cách thôn tính , đồng hóa dân nước ta . Mong độc giả đối chiếu và suy gẫm . 










TẠM VẼ THEO HUYỀN THỌAI 







---------------------

Tư liệu về 18 đời Hùng Vương.


Tư liệu về 18 đời Hùng Vương.



(tài liệu của Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá được in trong tạp chí “Nguồn Sáng“ số 23 trong dịp lễ Hội Giỗ Tổ Hùng Vương 1998. )



Cụ Biệt Lam Trần Huy Bá viết:

Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm các truyền thuyết, thư tịch cổ, các ngọc phả các xã quanh vùng có đền thờ các Vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ bảo tồn bảo tàng, Bộ Văn Hóa (số hiệu HTAE 9) thì các tài liệu này không ghi chép là 18 đời Vua Hùng mà lại ghi là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời Vua, có cả năm Can, Chi lúc sinh và lúc lên ngôi.
Các đời Vua trong một chi đều lấy hiệu của Vua đầu chi ấy.

Mười tám chi ấy như sau:

1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).

2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).

3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương,272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.

4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.

5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.

6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.

7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.

8. Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.

9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr.TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.

10. Chi Ất - Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, 3 đời, 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr.TL)

11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.

12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 trTL Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.

15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đờianh Thân (661 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu




16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạc tướng quân đánh tan giặc Man, Vua phong là Chuyển Thạch Tướng Đại Vương - ‘NgườI anh hùng làng Dóng’ Cao Xuân Đỉnh (NxbKHXH 1969 trg 126-130), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 3 đời vua, lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu



17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu

18. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đờI vua (có lẽ 3 đời) vì ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì - Hà Nội có bài vị « Tam Vị Quốc Chúa », ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.

Tổng cộng là 2621 năm từ 2879 đến 258 tr. TL

Như vậy, họ Hồng Bàng, trị vì nước Văn Lang, với vương hiệu Hùng Vương, không phải chỉ có 18 đời (18 ông vua) mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua.
Điều này giải thích hợp lý sự tồn tại gần 3000 năm của thời đại Hùng Vương.


Đền Hùng hiện nay trong ngôi đền chính, có một bài vị chung, thờ các vị Vua Hùng, có hàng chữ « Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng Thị thập bát thế thánh vương, thánh vị ». Do tục thờ cúng tổ tiên, chỉ chờ vị khai sáng đầu tiên, nên chữ « Thập bát thế » có thể hiểu là 18 Vương hiệu của các vị Tổ đầu tiên của 18 chi Hùng Vương, đã thay nhau cầm quyền trên đất nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của người Việt chúng ta ngày nay.



Thế thứ các Vua Hùng:

Mỗi chi Hùng Vương gồm nhiều đời con, cháu... kế ngôi, lấy tên hiệu và tên huý của đời Vua đầu chi chung cho các Vua tiếp theo trong chi đó. Triều đại Hùng Vương kéo dài 2621 năm (từ năm 2879 TCN đến 258 TCN), gồm khoảng 100 đời Vua.

1. Đức Kinh Dương Vương - Lộc Tục, tức Lục Dục Vương : sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi , Hai ngàn tám trăm bảy chín (2879 tcn), trị vì trong 86 năm , từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).

2. Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân -Di Lặc - Phật Tổ :năm ra đời :18/3/Bính Thìn (2825 tr. TL), năm 33 tuổi lên ngôi, hiệu Hùng Hiền Vương , 269 năm tại ngôi từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL) , Thủ lĩnh khoảng độ mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế)

3. Hùng Lân - Hiệu Hùng Quốc Vương : sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL), lên ngôi năm 18 tuổi, trị vì 271 năm từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL, truyền khoảng hơn 10 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.

4. Bửu Long - hiệu Hùng Hoa Vương : lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), trị vì trong 342 năm từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL), kéo dài hơn mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.

5. Bửu Lang - hiệu Hùng Hy Vương : sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi , trị vì trong 199 năm từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL) ,Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ . Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.

6. Long Tiên Lang - hiệu Hùng Hồn Vương: sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL) , lên ngôi khi 29 tuổi , trị vì trong 80 năm từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL) ,Thủ lĩnh truyền kế hai đời , Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.

7. Quốc Lang - hiệu Hùng Chiêu Vương :
 sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, trị vì 200 năm từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL) ,kéo dài 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.

8. Vân Lang - hiệu Hùng Vi Vương : sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi , trị vì 99 năm từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL), 5 đời kế thừa . Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.

9. Chân Nhân Lang huý – hiệu Hùng Định Vương:
 sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi năm 45 tuổi, trị vì 80 năm từ 1331 đến 1252 tr.TL , truyền thừa 3 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.

10. Hoàng Long Lang - hiệu Hùng Uy Vương :37 tuổi lên ngôi , trị vì 90 năm từ 1251 đến 1162 tr.TL ,truyền thừa 3 đời

11. Hưng Đức Lang - hiệu Hùng Trinh Vương :
 sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, trị vì 107 năm từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL), truyền được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.

12. Đức Hiền Lang - hiệu Hùng Vũ Vương :
 sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, 85 năm trị vì từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL) ,3 đời làm Thủ lĩnh . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

13. Tuấn Lang - hiệu Hùng Việt Vương : sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), 23 tuổi lên ngôi, 105 năm nắm quyền từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL), truyền 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

14. Viên Lang - hiệu Hùng Anh Vương :
 sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, 99 năm trị vì từ 853 đến 755 trTL, trải qua 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.

15. Cảnh Chiêu Lang - hiệu Hùng Triệu Vương : sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi , 94 năm làm thủ lĩnh từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL), cả thảy 3 đời Cha Con . Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu

16. Đức Quân Lang -hiệu Hùng Tạo Vương, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 91 năm trị vì từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL), 3 đời truyền nhau . Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu

17. Bảo Quang Lang - hiệu Hùng Nghi Vương : sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) ,9 tuổi lên ngôi, 159 năm trị vì từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL) , được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu

18. Huệ Lang - hiệu Hùng Duệ Vương : 
sinh năm Canh Thân (421 tr. TL) , 14 tuổi lên ngôi, trị vì 150 năm từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL) , truyền khoảng 6 đời . Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.

sau đó cơ đồ Văn Lang được trao lại cho Thục Phán , cháu họ của vua Hùng.

Danh sách 100 người con trai của Lạc Long Quân - Âu Cơ

Lân Lang làm vua, 49 người con còn lại theo cha Lạc Long Quân là:

Xích Lang, 
Quynh Lang, 
Mật Lang, 
Thái Lang, 
Vĩ Lang, 
Huân Lang, 
Yên Lang, 
Tiên Lang, 
Diên Lang, 
Tích Lang, 
Tập Lang, 
Ngọ Lang, 
Cấp Lang, 
Tiếu Lang,
Hộ Lang, 
Thục Lang, 
Khuyến Lang, 
Chiêm Lang, 
Vân Lang, 
Khương Lang, 
La Lang, 
Tuần Lang, 
Tân Lang, 
Quyền Lang, 
Đường Lang, 
Kiều Lang, 
Dũng Lang, 
Aác Lang, 
Tảo Lang, 
Liệt Lang, 
Ưu Lang, 
Nhiễu Lang, 
Lý Lang, 
Châm Lang, 
Tường Lang, 
Chóc Lang, 
Sáp Lang, 
Cốc Lang, 
Nhật Lang, 
Sái Lang, 
Chiêu Lang, 
Hoạt Lang, 
Điển Lang, 
Thành Lang, 
Thuận Lang, 
Tâm Lang, 
Thái Lang, 
Triệu Lang, 
Ích Lang.
.
50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là:

Hương Lang, 
Kiểm Lang, 
Thần Lang, 
Văn Lang, 
Vũ Lang, 
Linh Lang, 
Hắc Lang, 
Thịnh Lang, 
Quân Lang, 
Kiêm Lang, 
Tế Lang, 
Mã Lang, 
Chiến Lang, 
Khang Lang,
Chinh Lang, 
Đào Lang, 
Nguyên Lang, 
Phiên Lang, 
Xuyến Lang, 
Yến Lang, 
Thiếp Lang, 
Bảo Lang, 
Chừng Lang, 
Tài Lang, 
Triệu Lang, 
Cố Lang, 
Lưu Lang, 
Lô Lang, 
Quế Lang, 
Diêm Lang, 
Huyền Lang, 
Nhị Lang, 
Tào Lang, 
Ngyuệt Lang, 
Sâm Lang, 
Lâm Lang, 
Triều Lang, 
Quán Lang, 
Cánh Lang, 
Ốc Lang, 
Lôi Lang, 
Châu Lang, 
Việt Lang, 
Vệ Lang, 
Mãn Lang, 
Long Lang, 
Trình Lang, 
Tòng Lang, 
Tuấn Lang, 
Thanh Lang.

No comments:

Post a Comment