Saturday, 13 May 2017

13-05-17-SAT- QUANG TRI - HAI PHONG

13-05-17-SAT- QUANG TRI - BAO NVNBP 































































Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là tỉnh có Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt hai miền Bắc - Nam Việt Nam, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm của cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)
thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời Hán thuộc (từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam. Cuối thế kỷ 2, nhân triều đình nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị.
thế kỷ 10 mới giành lại được độc lập Đại Việt, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên phong đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chăm Pa là Rudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long.
Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố ChínhĐịa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio LinhCam LộĐa Krông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay
1306, vua Chăm Pa là Jaya Sinhavarman III (sử Việt chép là Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cưới Công chúa Huyền Trân và dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu. Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải LăngTriệu Phongthị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay.
1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa

Nội chiến – TRAN TUAN KIET

Ta đi trong buổi chiều nội chiến
Hành lý trên đời chỉ có thơ
Có những người yêu giờ đã biến
Theo dấu thời gian với hải hồ

Ta đi trong mùa xuân nội chiến
Đôi bờ Bến Hải lạnh rưng rưng
Tự do nô lệ phơi đầy xác
Thống nhất. Ôi dân đã chọn lầm

Một lũ cô hồn làm đục nước
Mặc tình vơ vét của muôn dân
Túi tham mở rộng hơn trời đất
Xương máu xây cao tháp vạn tầng

Ta đi trong lầm than chủng tộc
Nước non người đẹp chẳng còn ai
Đêm thâu ngụm rượu buồn đơn độc
Ánh chớp thiên thu chợt lóe dài

Ta đi về một bến sông xưa
Ngồi ngắm đò ngang nghe gió đưa
Có bóng mây chiều đang nhạt nắng
Có tình nhân loại nở đong đưa

Thăm thẳm hồn ta chân đã mỏi
Hơi tàn tê lết bước thiên thu
Một hai sợi tóc xưa vừa rụng
Theo gió bay vô cõi tuyệt mù


Civil war - TRAN TUAN KIET

I walk in the afternoon of civil war
Baggage life only poetry
Some lovers have disappear
Follow the time with the changes

I go in the spring of civil war
The banks of Ben Hai cold cry
Freedom of slavery exposed body
Unified. Oh people have chosen wrong

The cons  flood of ghosts nation
Corruption -Wear the wool of the people
Greedy to open wider than heaven
Bloody skeletal building10 thousands floor tower

I go in racial accusations
The beautiful women no one else
Late night alone sipped wine
The flash of lightning flashed long ago

I go to an old river station
Sitting and watching the little boat and the wind blowing
Dim shadow little light shunshine
Human beings grow up

Deep inside my soul tired
Sluggish decadence steps
One – two  of old hair fell out

According to the wind of the infinite heaven


tỉnh Quảng Trị quyết định cấp kinh phí 250 triệu đồng để Huy và giáo viên hướng dẫn Lê Công Long tham dự cuộc thi. Do vướng mắc thủ tục, Huy chỉ tham dự một mình nên kinh phí sẽ thấp hơn dự trù Trưa nay 13/5, sau cuộc phỏng vấn ngắn, em Phạm Huy (học sinh lớp 11, trường THPT thị xã Quảng Trị) đã được phía Đại sứ quán Mỹ cấp visa để em có cơ hội tham gia cuộc thi Khoa học kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF)2017.đề án “Cánh tay robot dành cho người khuyết tật” sau 2 lần phỏng vấn thất bại trước đó. 22h50 tối nay, Huy sẽ bay từ Nội Bài (Hà Nội), quá cảnh Hàn Quốc trước khi đến sân bay Los Angeles vào 22h ngày 14/5 (giờ Mỹ .
 KHI DI RA NUOC NGOAI NHO MANG THEO GIAY KHAI SINH , SCAN GIAY MOI , COPY THEM DE O NHA VA DEM THEO PHONG HO
XEM SAN BAY NHU THE NAO ?
 COI BANG CHI DAN HANG HANG KHONG O CONG NAO ?
GHI RA TRUOC CAU HOI MINH CAN HOI
DE DUA RA CHO NGUOI TA VI NHIEU KHI MINH NOI HO KHONG HIEU
GHI RA SO DIEN THOAI CUA NGUOI RA DON , DE HAI QUAN HO GOI DIEN THOAI CHO NGUOI DO XAC MINH , HAY DIA CHI MINH SE DEN , CHUAN BI SAN SANG GIAY TO MOI LIEN HE VOI NOI MOI MINH DEN .
DEM THEO TIEN LE , MI GOI  , KHONG MANG THIT , XEM BANG CAM MANG THUC AN NAO , DEM DON GIAN , KHONG CO HAT GIONG
- HOI NGUOI QUN O SAN BAY DE CHI DAN CHO MINH TIM CONG CHUEYN MAY BAY
PHONG VAN LAN KE TIEP KHI DEN SAN BAY RAT QUAN TRONG
KHI O PHAI COI CHUNG DO DAC , THUC AN .GIAY TO .. MAT CAP , CHAN , PHA MAY MOC , AN UONG TRONG KHU VUC CUA MINH

- SO LUONG TIEN DUOC QUY DINH MANG THEO , MANG DON GIAN DUNG MANG NHIEU THU LINH KINH DE VAO HON

In the immediate prehistorical period, the lowlands of Quảng Trị and central Vietnam as a whole were occupied by Cham peoples (Champa), speaking a Malayo-Polynesian language, and culturally distinct from the Vietnamese to the north along the Red River. The Qin conquered parts of present-day Central Vietnam at the end of the 3rd century BCE, and administered the indigenous peoples of the area through a commanderyRinan, for several centuries. A rebellion by the Cham in the 2nd century CE overthrew Chinese control and reestablished local government.[1] Beginning in the 14th and 15th centuries, the Chams were defeated in the area by Vietnamese armies, and ethnic Vietnamese gradually displaced or absorbed those Chams who had not fled. Over time a distinct Vietnamese dialectical and cultural subgroup developed in the area. The region was seized by the French by 1874. In 1887 it became part of French Indochina, i.e. the Annam protectorate. Upon the division of Vietnam in 1954 into North and South, Quảng Trị became the northernmost province of the Republic of Vietnam. Beginning 1964, the province gradually became a center for American bases, particularly after October 1966, when the 3rd Marine Division moved to bases just south of the demilitarized zone. In 1966, North Vietnamese forces also began occupying the northern region and pushing deeper into the province. The provincial capital, Quảng Trị City, was overrun and occupied briefly by Communist troops in April 1967, and was a principle battleground during the 1968 Tet Offensive when it was again overrun by North Vietnamese troops and held for a short period before being recaptured by South Vietnamese government and U.S. forces.[2][3] The Battle of Khe Sanh (1968) was a part of the North's steady efforts to occupy the whole of the province. After Khe Sanh was evacuated in July 1968, the North Vietnamese continued their efforts to take the entire province. The most notable achievement of the North Vietnamese offensive in 1972 was capturing Quảng Trị (First Battle of Quảng Trị), although they lost much of the territory gained during the South Vietnamese counter-offensive from June through September 1972 (Second Battle of Quảng Trị). the entire province fell to North Vietnamese forces in March 1975.  800,000 tonnes out of the 7.8 million tonnes ofmunition dropped by U.S forces on Vietnam, 2000, the Vietnam Veterans Memorial Fund (VVMF) paid the first visit to Quảng Trị. In 2001 the VVMF cooperated with QuảngTrị Province People's Committee (PPC) to embark on a comprehensive and integrated approach to address the problem of ERW. As a result, in August 2001, Project RENEW[9] was established.
625,800 inhabitants (2006)Capital Đông  City
Districts: Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng, Hướng Hóa, Cồn Cỏ and Đa Krông





Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là tỉnh có Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt hai miền Bắc - Nam Việt Nam, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm của cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)
thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời Hán thuộc (từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam. Cuối thế kỷ 2, nhân triều đình nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị.
thế kỷ 10 mới giành lại được độc lập Đại Việt, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên phong đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chăm Pa là Rudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long.
Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố ChínhĐịa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio LinhCam LộĐa Krông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay
1306, vua Chăm Pa là Jaya Sinhavarman III (sử Việt chép là Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cưới Công chúa Huyền Trân và dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu. Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải LăngTriệu Phongthị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay.
1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa

Nội chiến – TRAN TUAN KIET

Ta đi trong buổi chiều nội chiến
Hành lý trên đời chỉ có thơ
Có những người yêu giờ đã biến
Theo dấu thời gian với hải hồ

Ta đi trong mùa xuân nội chiến
Đôi bờ Bến Hải lạnh rưng rưng
Tự do nô lệ phơi đầy xác
Thống nhất. Ôi dân đã chọn lầm

Một lũ cô hồn làm đục nước
Mặc tình vơ vét của muôn dân
Túi tham mở rộng hơn trời đất
Xương máu xây cao tháp vạn tầng

Ta đi trong lầm than chủng tộc
Nước non người đẹp chẳng còn ai
Đêm thâu ngụm rượu buồn đơn độc
Ánh chớp thiên thu chợt lóe dài

Ta đi về một bến sông xưa
Ngồi ngắm đò ngang nghe gió đưa
Có bóng mây chiều đang nhạt nắng
Có tình nhân loại nở đong đưa

Thăm thẳm hồn ta chân đã mỏi
Hơi tàn tê lết bước thiên thu
Một hai sợi tóc xưa vừa rụng
Theo gió bay vô cõi tuyệt mù



Civil war - TRAN TUAN KIET

I walk in the afternoon of civil war
Baggage life only poetry
Some lovers have disappear
Follow the time with the changes

I go in the spring of civil war
The banks of Ben Hai cold cry
Freedom of slavery exposed body
Unified. Oh people have chosen wrong

The cons  flood of ghosts nation
Corruption -Wear the wool of the people
Greedy to open wider than heaven
Bloody skeletal building10 thousands floor tower

I go in racial accusations
The beautiful women no one else
Late night alone sipped wine
The flash of lightning flashed long ago

I go to an old river station
Sitting and watching the little boat and the wind blowing
Dim shadow little light shunshine
Human beings grow up

Deep inside my soul tired
Sluggish decadence steps
One – two  of old hair fell out

According to the wind of the infinite heaven



tỉnh Quảng Trị quyết định cấp kinh phí 250 triệu đồng để Huy và giáo viên hướng dẫn Lê Công Long tham dự cuộc thi. Do vướng mắc thủ tục, Huy chỉ tham dự một mình nên kinh phí sẽ thấp hơn dự trù Trưa nay 13/5, sau cuộc phỏng vấn ngắn, em Phạm Huy (học sinh lớp 11, trường THPT thị xã Quảng Trị) đã được phía Đại sứ quán Mỹ cấp visa để em có cơ hội tham gia cuộc thi Khoa học kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF)2017.đề án “Cánh tay robot dành cho người khuyết tật” sau 2 lần phỏng vấn thất bại trước đó. 22h50 tối nay, Huy sẽ bay từ Nội Bài (Hà Nội), quá cảnh Hàn Quốc trước khi đến sân bay Los Angeles vào 22h ngày 14/5 (giờ Mỹ .
 KHI DI RA NUOC NGOAI NHO MANG THEO GIAY KHAI SINH , SCAN GIAY MOI , COPY THEM DE O NHA VA DEM THEO PHONG HO
XEM SAN BAY NHU THE NAO ?
 COI BANG CHI DAN HANG HANG KHONG O CONG NAO ?
GHI RA TRUOC CAU HOI MINH CAN HOI
DE DUA RA CHO NGUOI TA VI NHIEU KHI MINH NOI HO KHONG HIEU
GHI RA SO DIEN THOAI CUA NGUOI RA DON , DE HAI QUAN HO GOI DIEN THOAI CHO NGUOI DO XAC MINH , HAY DIA CHI MINH SE DEN , CHUAN BI SAN SANG GIAY TO MOI LIEN HE VOI NOI MOI MINH DEN .
DEM THEO TIEN LE , MI GOI  , KHONG MANG THIT , XEM BANG CAM MANG THUC AN NAO , DEM DON GIAN , KHONG CO HAT GIONG
- HOI NGUOI QUN O SAN BAY DE CHI DAN CHO MINH TIM CONG CHUEYN MAY BAY
PHONG VAN LAN KE TIEP KHI DEN SAN BAY RAT QUAN TRONG
KHI O PHAI COI CHUNG DO DAC , THUC AN .GIAY TO .. MAT CAP , CHAN , PHA MAY MOC , AN UONG TRONG KHU VUC CUA MINH

- SO LUONG TIEN DUOC QUY DINH MANG THEO , MANG DON GIAN DUNG MANG NHIEU THU LINH KINH DE VAO HON













In the immediate prehistorical period, the lowlands of Quảng Trị and central Vietnam as a whole were occupied by Cham peoples (Champa), speaking a Malayo-Polynesian language, and culturally distinct from the Vietnamese to the north along the Red River. The Qin conquered parts of present-day Central Vietnam at the end of the 3rd century BCE, and administered the indigenous peoples of the area through a commanderyRinan, for several centuries. A rebellion by the Cham in the 2nd century CE overthrew Chinese control and reestablished local government.[1] Beginning in the 14th and 15th centuries, the Chams were defeated in the area by Vietnamese armies, and ethnic Vietnamese gradually displaced or absorbed those Chams who had not fled. Over time a distinct Vietnamese dialectical and cultural subgroup developed in the area. The region was seized by the French by 1874. In 1887 it became part of French Indochina, i.e. the Annam protectorate. Upon the division of Vietnam in 1954 into North and South, Quảng Trị became the northernmost province of the Republic of Vietnam. Beginning 1964, the province gradually became a center for American bases, particularly after October 1966, when the 3rd Marine Division moved to bases just south of the demilitarized zone. In 1966, North Vietnamese forces also began occupying the northern region and pushing deeper into the province. The provincial capital, Quảng Trị City, was overrun and occupied briefly by Communist troops in April 1967, and was a principle battleground during the 1968 Tet Offensive when it was again overrun by North Vietnamese troops and held for a short period before being recaptured by South Vietnamese government and U.S. forces.[2][3] The Battle of Khe Sanh (1968) was a part of the North's steady efforts to occupy the whole of the province. After Khe Sanh was evacuated in July 1968, the North Vietnamese continued their efforts to take the entire province. The most notable achievement of the North Vietnamese offensive in 1972 was capturing Quảng Trị (First Battle of Quảng Trị), although they lost much of the territory gained during the South Vietnamese counter-offensive from June through September 1972 (Second Battle of Quảng Trị). the entire province fell to North Vietnamese forces in March 1975.  800,000 tonnes out of the 7.8 million tonnes ofmunition dropped by U.S forces on Vietnam, 2000, the Vietnam Veterans Memorial Fund (VVMF) paid the first visit to Quảng Trị. In 2001 the VVMF cooperated with QuảngTrị Province People's Committee (PPC) to embark on a comprehensive and integrated approach to address the problem of ERW. As a result, in August 2001, Project RENEW[9] was established.
625,800 inhabitants (2006)Capital Đông  City
Districts: Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng, Hướng Hóa, Cồn Cỏ and Đa Krông


hai phong -----------------------

Hai phong is the third largest city of Vietnam with a population of over two million people. The city's name means "coastal defense" and it is nicknamed the Flamboyant City because of the many flame trees planted throughout it. Haiphong is Northern Vietnam's most important seaport and has many industrial parks invested by multinational corporations. In Vietnam, only Hanoi and Ho Chi Minh City are larger than Haiphong
Haiphong is the home of Lê Chân, one of the female generals under the command of the Trưng Sisters who rose against Chinese rule in 40 AD and ruled until their defeat in 43 AD. Centuries later under the Mạc Dynasty the area earned the appellation Hải tần Phòng thủ ("defensive coastal area") as it protected the eastern flank of Mac kings' home province
 19th century at the end of Nguyễn Emperor Tự Đức's reign, the Hang Kenh Communal House in what is now the city's Le Chan district was made the administrative seat of An Dương District, restoring its regional importance.[10] The area by then had developed into a sizable commercial port.
At the eve of the French conquest in 1881, a devastating typhoon ravaged the area, claiming up to 300,000 lives. Despite the damages, Haiphong was developed by the French to serve as Indochina's main naval base over the ensuing decades.
Following the defeat of Japan in World War II, Vietnamese nationalists agitated for independence against the French return. French forces landed in Haiphong and encountered resistance which killed three French troopS ,  Vietnam War, Haiphong was subjected to heavy bombing by US Navy and Air Force strike aircraft because it was North Vietnam's only major port. U.S. Admiral Thomas H. Moorer ordered the mining of Haiphong harbor on 8 May 1972, 
population of 2.103.500 for the metropolitan area (2015), encompassing an area of 1,507.57 km²,

Hải Phòng là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, Tphố lớn thứ 3 cả nước[3], lớn thứ 2 miền Bắc sau Hà Nội.  thành lập vào năm 1888
Đất Cảng, hay Thành phố Cảng. Việc hoa phượng đỏ được trồng rộng rãi nơi đây ,  Quần đảo Cát Bà, cùng với các bãi tắm và khu nghỉ dưỡng ở Đồ Sơn. 
khảo cổ học Cái Bèo (Cát Bà) (thuộc văn hóa Hạ Long),[7] Tràng Kênh (Thủy Nguyên), Núi Voi (An Lão) (thuộc văn hóa Đông Sơn), đã xác định vùng đất này từ xưa là nơi đã có cư dân Việt cổ sinh tụ, làm ăn. Theo thư tịch cũ, toàn địa bàn xứ Đông (Hải Dương) xưa - bao gồm cả Hải Phòng ngày nay - thời Hùng Vương thuộc bộ Dương Tuyền, là một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang.
Dưới thời Bắc thuộc, những năm đầu Công nguyên, các vùng đất thuộc địa bàn Hải Phòng như nội thành Hải Phòng ngày nay, huyện Thủy Nguyên, huyện An Lão, huyện Tiên Lãng, huyện Vĩnh Bảo... theo truyền thuyết cũng như thần phả làng xã còn lưu truyền, là nơi nữ tướng Lê Chân (?-43) về gây dựng căn cứ và tuyển mộ nghĩa quân chống quân Đông Hán dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng. Nữ tướng Lê Chân cũng là người có công đầu trong việc khai phá lập nên trang An Biên xưa (còn được biết đến là trấn Hải Tần Phòng Thủ) - tiền thân của thành phố Hải Phòng ngày nay
Thời Lê sơ, toàn bộ địa bàn Hải Phòng ngày nay thuộc trấn Hải Dương (một trong Thăng Long Tứ Trấn) hay còn được gọi là xứ Đông,
 Mạc Đăng Dung xây dựng làng Cổ Trai từ một làng chài ven biển thuộc huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn của trấn Hải Dương khi đó (ngày nay là xã Ngũ Đoan thuộc huyện Kiến Thụy của thành phố Hải Phòng) trở thành kinh đô thứ hai của nhà Mạc (Dương Kinh) 


Kẻ Chợ (Thăng Long) và phố Hiến còn nhắc nhiều đến 2 địa danh khác là Batshaw (còn được viết là Batsha) và Domea nằm trong khoảng vĩ độ 20°45' và 20°50' bắc thuộc vùng Đồ Sơn - Tiên Lãng ngày nay. Nhà hàng hải người Anh ở thế kỷ XVII l
à William Dampier có viết về Batsha (Batshaw) và Domea trong cuốn sách Du hành và Khám phá năm 1688. 
Hải Phòng có thể bắt nguồn từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng do Bùi Viện lập từ năm 1871 đời Tự Đức, 
Hải Phòng có bến Sáu kho
Có sông Tam Bạc có lò Xi măng

 Làng chài Cái Bèo, Làng hoa Hạ Lũng, Làng nghề chiếu cói Lật Dương, Làng tạc tượng Bảo Hà,Làng mây tre đan Chính Mỹ, Làng đúc Mỹ Đồng, Làng cau Cao Nhân, Vận tải thủy An Lư; Khai thác, nuôi trồng thủy sản Lập Lễ; Sản xuất cá giống Hội Am; Con rối Nhân Mục; Mây tre đan Tiên Cầm; Hoa cây cảnh Mông Thượng; Bánh đa Kinh Giao; Hoa Đồng Dụ; Hoa Kiều Trung; Hoa Minh Kha; Nuôi trồng thủy sản Tân Thành...
·         Hội chọi trâu Đồ sơn: Hội vật cầu làng Kim (Kim Sơn, Kiến Thụy) sáng mồng 6 tháng giêng
·         Lễ hội đình Đồng Giới ở huyện An Dươn , Lễ hội đua thuyền rồng trên biển Đồ Sơn
bánh đa cua, bún cá, bánh mỳ cay, cơm cháy hải sản, ốc cay, nem cua bể (nem vuông)

Van nghe sy Phm Thiên Thư


















































































































































































































No comments:

Post a Comment