532-03-04-17-MON- BAO NVNBP - LONDON - MOON SUN
-5.000 YRS HISTORIES BY NAMNHIEN
NGUOIVIETNAMBONPHUONG-WORLDTIANS
DAIVIETTHANDAO-VIETTIANS
03-04-2017-MONDAY – THU HAI
07-03- DINH DAU – NGAY CANH THAN
Bài ca hiện thể
Gió thổi vần mây bay nhẹ
Chở thơ lên đến đỉnh sầu
Mưa chiều vương hương tóc rối
Cuộc đời như giấc chiêm bao
Nàng thơ ngủ trong rừng thẳm
Ngàn năm thức giấc một lần
Con đường tình yêu bí ẩn
Chằn chịt mây rừng bao quanh
Lạc dấu trời sương
Quên năm tháng lụu ngày dài
Chợ khuya hiu hắt đèn chài Tân Hưng
Bến đò ngược bến đò ngang
Trời như xuống thấp mây ngang đỉnh đầu
Mênh mang con sóng bạc đầu
Nhớ người muôn thuở qua cầu cái sơn
Cung đàn tiếng nhạc nĩ non
Nửa đêm giọng hát hãy còn lững lơ
Mái chèo khua nhịp vần thơ
Dừng chân quán nước nằm mơ cội bàng
Ngày về bến SaGiang
Sương bóng thời gian đọng mắt sầu
Đêm trường đi mãi biết về đâu
Trăng còn thanh sử chưa vàng võ
Ánh vẫn còn soi rõ địa cầu
Lướt thướt sông dài sao lộng bóng
Canh tàn nghe tiếng quạ kêu sương
Ngày mai xuân đến muộn hoa nở
Viết bản ca hùng gởi bốn phương
Đèn đã mờ phai màu mắt trắng
Mây nước trôi về ta đứng trông
Bên cầu cá đớp mây hờn dỗi
Nước vẫn còn đau có hận lòng
Sương nửa đời rồi trên mái tóc
Tình già ý trẻ mộng đôi nơi
Phố xưa Nam Việt chân trời cũ
Ta lại về coi sự đổi dời
Thuở trước ta đi thời thiếu niên
Qua ơn binh lửa dậy triền miên
Nay về em đứng bồng con nhỏ
Nào biết người xưa trở lại tìm
Mây trời còn đó người xưa mất
Bằng hữu xa rồi chẳng một ai
Nghe câu hoài cổ xuân vừa đến
Chỉ nặng trong tâm mối cảm hoài
Giao tiên
Em người thái cổ thiên tiên
Tôi người cát bụi ở miền viễn đông
Trúc tơ xe mối chỉ hồng
Ly Kiều đâu dấu ngựa lồng ngàn xưa
Bãi nào vắng bóng đò đưa
Mây bay chở nắng còn chưa thấy về
Cổ thành mây bạc buồn tê
Màu hương kỷ niệm còn mê hoặc người
Hư ảnh
Nắng chiều quanh quẩn chưa tan
Đã nghe sóng vỗ bên ngàn vi lau
Trời xanh thăm thẳm một màu
Thơ bay lá rụng đông rào rạc mưa
Lộ chiều chưa kịp tiễn đưa
Bóng em đã khuất sau bờ tường cao
Mắt thu buồn tựa chiêm bao
Đèn hôm bật sáng đời thao thiết buồn
Lập đông sương bóng ngọn nguồn
Che mờ hư ảnh bên đường đêm nay
Kim Bằng
Cuộc đời quí báu vô song
Bời vì ta có tấm lòng cao sâu
Cuộc đời dù tựa chiêm bao
Nhưng trong phi lý nhiệm mầu là đây
Là tình bằng hữu hôm nay
Cùng chung thế kỷ cùng say chuyện đời
Bao nhiêu ý nghĩa trong đời
Có anh có chị có người tình chung
Ối tình bằng hữu vô cùng
Lẽ đời chia sẽ thủy chung trọn đời
Hạc về
Gió bấc thổi cành mai
Lá vàng yên thảm cỏ
Thiên thu sầu vạn cổ
Chim Hạc về sớm mai
Lời tự tình
Lắng nghe lời mây núi
Vọng mãi trong hồn ta
Lắng nghe lời bể cả
Mênh mang trong chiều tà
Núi ngủ quên ngàn năm
Biển mù khơi sóng gió
Khúc gỗ trôi ra khơi
Mong manh thay cuộc đời
Anh về thương bóng nhỏ
Đi lại dưới mù sương
Như con thuyền đợi gió
Lạnh lẽo dưới tà dương
Giòng thời gian đọng lại
Những ân tình trôi qua
Vẫn còn nghe giọng hát
Ngân lên thật thiết tha
Chiều đông sầu vời vợi
Hoa tuyết mọc quanh vườn
Trăng liềm vừa cỡi sóng
Nhô lên dãy mây ngàn
NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG, toàn văn bản dịch của GS NGÔ ĐỨC THỌ
*
Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm Trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470), hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ tức 42 trang chữ Hán, tổng cộng gần 10.000 (1 vạn) chữ, xưa nay, chưa thấy ai dịch trọn vẹn. Bằng sự kiên trì và gắng sức của tuổi gìa, sau hơn nửa tháng, GS Ngô Đức Thọ đã hoàn thành trọn vẹn bản dịch, chỉ với một mục đích cao cả là cung cấp cho các nhà nghiên cứu và bạn đọc văn bản quý báu được gọi là Quốc bảo này. Và như GS Ngô Đức Thọ từng viết: Là người Việt Nam, dòng dõi con Lạc cháu Hồng, không thể không biết đến Ngọc phả Hùng Vương. Xin trân trọng giới thiệu cùng các nhà nghiên cứu và bạn đọc quan tâm.
PHAN DUY KHA giới thiệu.
*
Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm Trực học sĩ Nguyễn Cố phụng soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470), hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ tức 42 trang chữ Hán, tổng cộng gần 10.000 (1 vạn) chữ, xưa nay, chưa thấy ai dịch trọn vẹn. Bằng sự kiên trì và gắng sức của tuổi gìa, sau hơn nửa tháng, GS Ngô Đức Thọ đã hoàn thành trọn vẹn bản dịch, chỉ với một mục đích cao cả là cung cấp cho các nhà nghiên cứu và bạn đọc văn bản quý báu được gọi là Quốc bảo này. Và như GS Ngô Đức Thọ từng viết: Là người Việt Nam, dòng dõi con Lạc cháu Hồng, không thể không biết đến Ngọc phả Hùng Vương. Xin trân trọng giới thiệu cùng các nhà nghiên cứu và bạn đọc quan tâm.
PHAN DUY KHA giới thiệu.
*
HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ
(Bản Hồng Đức nguyên niên)
BẢN DỊCH
Mục lục
1. KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王
2. LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王
3. HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王
4. HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王
5. HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王
6. HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王
7. HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王
8. HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王
9. HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王
10. HÙNG UY VƯƠNG 雄威王
11. HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王
12. HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王
13. HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王
14. HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王
15. HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王
16. HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王
17. HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王
18. HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王
CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN
TÍCH XƯA LƯU LẠI CỦA BẢN NGỌC PHẢ CHÉP TRUYỆN TIỀN THÁI TỔ CAO HOÀNG ĐẾ CỦA THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG SƠN THÁNH
[ĐẾ MINH 帝明] Cháu ba đời của vua Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi rồi đi tuần du phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam - xưa gọi là động Xích Quỷ, nguyên thuộc nước ta gọi là quận Giao Chỉ. Động Xích Qủy sau gọi là nước Xích Quỷ, nay đổi là nước An Nam) thì gặp nàng Vụ Tiên thần nữ, sinh ra Kinh Dương vương.
[Đời thứ 1]
KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王
Vua thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, phong cho Kinh Dương vương quay mặt về phương nam mà cái trị thiên hạ [tức là làm vua phương Nam], gọi tên là nước Xích Quỷ.
Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].
Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non]muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống).
Vùng này giáp biển ở cửa Hội Thốn, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cống
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua Kinh Dương bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Vua trải xem địa đồ, bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng xem cảnh trời nước. Vua chợt thấy một thiếu nữ lưng eo dung nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:
-Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
-Thiếp tên là Thần Long, là con gái vua Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu khăn.
Kinh Dương vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long thuyền. Vua cho quay thuyền trở về thành đô, lập Thần Long làm Cung vi chính khổn (Hậu cung Chính khổn)
Ngày sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. Thu tận hình thế, vua nhận ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài lại dựng đô thành Phong Châu ( nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (Đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, đến bắc Động Đình hồ, nam tiếp nước Hồ Tôn (nay là nước Chiêm Thành). Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại dựng ở núi Nghĩa Lĩnh, nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm nơi đóng đô ấp của nước Việt Thường. Bấy giờ vua đi tùân thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh vừa lúc cung phi con gái vua Thần Long có mang, rồng hiện điềm lành, khắp nhà rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt toả ra. Cung phi nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Lạc Long quân.
Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.
Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử.
Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chới ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi. Thề ròi Kinh Dương vương sai Lạc Long quân ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc nước.
Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, thọ 260 tuổi. Lạc Long nhiếp chính.
[Đời thứ 2]
LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王
Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương. Bấy giờ nàng Âu Lạc (tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sức sáng bừng đầu núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen).
Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng ống lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên thượng đế, Tứ phủ vạn linh.
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc:
Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước.
Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.
Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói:
Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh.
Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu đảo lớn.
Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành toả rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay toả khắp chốn núi sông.
Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng.
Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn:
Trời sinh bậc thánh,
Trị nước sinh vua,
Thanh bình bốn biển,
Thiên hạ vững yên.
Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên.
Bỗng thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền vương thấy 8 vị thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt,chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ (quá độ long cân?), tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên,mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được chuyện gì xẩy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha trị bình trong nước.
Tâu xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ.
Hiền vương thấy 100 con trai bỗng nhiên đã trở nên cao lớn, thân cao bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng chầu hai bên tả hữu. Các hoàng tử lạy mừng phụ hoàng. Hùng vương xuống chiếu truyền rằng:
Trăm con trời sinh của ta thánh văn thần vũ, hùng tài đại lược, giúp nước yên bình, thiên hạ ngước trông, thi nhân hoá đức, cha con vua tôi cùng vui.
Hiền vương cho triệu bách quan đến lạy mừng rồi cùng triều hội để nghị bàn quốc sự, đổi hiệu thay tên. Trăm con trai trăm hiệu, vị thứ cao thấp trước sau. Trăm hoàng tử đều có tư chất hơn người, anh hùng bậc nhất xưa nay, thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không ai dám phân biệt được trong các hoàng tử thì ai là người anh minh quyết đoán hơn, cho nên cũng khó đặt các danh hiệu. Triều đình tâu rằng:
-Nước có Thánh vương, sinh các hiền tướng, đều là những bậc trong triều không ai sánh bằng, vậy nên chúng thần không ai dám bàn định danh hiệu các hoàng tử. Kính thỉnh Thánh phụ xét tài của các hoàng tử để định danh hiệu.
Hiền vương phán rằng:
-Chính sự lớn của triều đình phải có người anh tài nổi bật mới có thể đảm đương được. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh đựoc trăm con trai. Nay trẫm muốn phong truyền chức quan cho các con, Trẫm thành tâm lập đàn chay, mật khấn Hoàng thiên cùng vạn linh ngự hội để đặt định danh hiệu trăm quan.
Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự nhiên có cảm ứng, có vị thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bền mời cụ già đến hỏi chuyện. Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi:
-Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho.
Tiên ông ha hả cười vang.
Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:
-Trẫm có điềm lành sinh đựoc trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đaọi khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho
Tiên Ông đáp:
-Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nuớc Nam Miên ngắm xem phong thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? Tiên Ông bèn xem mặt các hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiêc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại gọi 100 hoàng tử đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ. Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ.
Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi chính toạ ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ:
Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sau là Hoan Châu. bảy là Bố Chanh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
-Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính.
Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế đựoc rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hoá của thời thái cổ cũng không sánh kịp.
Hùng Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt.
Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, làm Động Đình đế quân.
[Đời thứ 3]
HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王
Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn, sau khi nối ngôi thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Hoàn vũ thanh bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc nhiều công hưng trị, càng sáng hơn các tiên vương, các đời đều tôn xưng là bậc hiền quân. Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ sơn tinh thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên thần phụ đạo; 50 trấn góc biển đều gọi là Thuỷ thượng linh thần, tiện cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc. Hùng Quốc vương hưởng ngôi hơn 221 năm, thọ 260 tuổi, sinh đựoc con trai con gái 50 hoàng tử.
[Đời thứ 4]
HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王
Thái tử Hùng Việp vương nối ngôi chính thống, nhớ công ơn sáng đẹp của tiền nhân để giáo hoá khích lệ sĩ phong. Lấy nhân nghĩa làm khuôn dân tục. Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hoá nhật thiên hạ sáng tưng bừng. Không đất nào không có nhân tài, trong hoà khí xuân phong vẳng nghe nhạc thiên uy, xuất hiện thái bình cảnh tượng. Ở đời có vầng sáng, thẳng thông với tiền nhân hướng trị thế cùng về. Vua hưởng ngôi 300 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Hy vương để kế thừa quốc thống.
[Đời thứ 5]
HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王
Hùng Hy vương lên ngôi, nắm vận lớn bốn đời, nhạy bén hưng khởi trị bình, trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự. Từ đó người xa bắc thăng trèo núi mà đến, vượt biển mà sang, chẳng đâu không thần phục, chốn xa nơi vắng, thảy đều thấm nhuần mỹ hoá thuần phong, trị công lỗi lạc, so với tiền vương không thẹn, đủ làm một đấng vua hiền. Hùng Hy vương hưởng quốc lịch 200 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Huy vương kế thừa quốc chính.
[Đời thứ 6 ]
HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王
Huy vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng:
- Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc.
Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần:
-Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức.
Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: ” Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong ngước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào?
Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: “Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế?
Ngọc Hoàng phán:
-Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc [1] , có cầu có nguyện tất được tòng tâm.
Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau [nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn!
Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không. Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế:
-Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân!
Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả xuống.
Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương:
-Vua biết hối lỗi, đã đựoc Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều!
Vua tin lời.Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng:
-Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
-Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước.
Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong dóng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: “Con ta chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ”. Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói:
-Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!”
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói:
-Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa!
Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 50 trăm (=5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Thiết Đổng nói:
Vua theo đúng hẹn,
Vận nước lâu bền.
Quân giặc phải tan,
Một ngày giúp nước,
Thiên cổ danh vang.
Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: “Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả”.
Dân lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân.
Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc.
Thiết Đổng lạy tạ mẹ:
-Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng!
Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm:
-Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá.
Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ.
Vua lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa Lĩnh làm Kính Thiên linh điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam . Hùng Huy vương hưởng nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền Tốn).
[Đời thứ 7]
HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王
Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống.
Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi đựoc kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ. Vua bèn ngự điện Kinh Thiên, cho xây cất Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) vua đều trai giới lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên, hoá sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương,Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự ( nay đổi là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo. Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức.
Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, uớc nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa.
Lão ông nói:
-Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông”
Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.
Bấy giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng:” Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho đựoc quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho”.
Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào.
Thiên vương nói:
-Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo.
Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi.
Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ “Thiên Linh ấn”, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ “Thiên Lĩnh nhẫn”( nhẫn cũng là kiếm).
Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu:
-Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng.
Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: “Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh”.
Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng:
“Tây đại sơn nhân thượng [ ]
Bất kiến tâm hạ tướng.
Hội đông túc danh nhân
Doãn cư thượng khẩu vượng
Chiêu vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: “Nhà nàng ở đâu?” Cô gái đáp:
-Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh.
Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt. [ ]
[Đời thứ 8]
HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王
Hùng Vĩ vương nối vị, kế thừa ngôi báu các đời tiên vương . Lúc mới nắm quyền, các việc chính sự thi thố kể cũng khả quan. Vương thấy lấy ấn kiếm đưa cho quần thần xem mà bảo: “Trẫm có hai vật báu linh thiêng, lo gì không trị được thiên hạ?” Từ đó thần uy của Vĩ vương càng chấn động, thanh thế lên cao, những kẻ gian phu trong bốn phương thảy đều vỡ mật run tim. Trong nước thái hoà, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là bậc vua hiền. Hiền Vĩ vương hưởng nước đựoc 100 năm thì băng.
Truyền đến:
[Đời thứ 9]
HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王
ở ngôi 80 năm.
[Đời thứ 10]
HÙNG UY VƯƠNG 雄威王
ở ngôi 90 năm.
[Đời thứ 11]
HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王
ở ngôi 170 năm.
[Đời thứ 12]
HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王
ở ngôi 96 năm.
[Đời thứ 13]
HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王
ở ngôi 105 năm.
[Đời thứ 14]
HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王
ở ngôi 99 năm.
[Đời thứ 15]
HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王
ở ngôi 94 năm.
[Đời thứ 16 ]
HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王
ở ngôi 92 năm.
Trải qua 16 đời, đều xưng hiệu là Trị Bình Kiến Phu治平建夫.
[Đời thứ 17]
HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王
Thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, vương sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết
Bấy giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị vương. Hùng Nghị vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị vương, nói: “Quân Thục từ phía tây đến chỉ muốn bắt bộ chủ [Ai Lao] để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua?
Nghị vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bèn bắt được bộ chủ [Ai Lao] đem về nước mình, gả công chúa rồi nhường ngôi cho [người chủ bộ cũ của bộ Ai Lao ấy]. Thục vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị vương, xin coi nước Nam là huynh, nước Tây (Thục) là đệ, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị vương bằng lòng như thế. Từ đó nước Tây (Thục) và nươc Nam ta hưu binh. Hùng Nghị vương ở ngôi 160 năm, lập Thái tử là Hùng Tuyền vương.
[Đời thứ 18]
HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王
Tuyền vương [ ] kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện cho mệnh mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện của các tỏ tong cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao,lâu đài muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc. Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữa phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam ). Còn Mỵ nương công chúa, phụ vương có ý kín muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định. Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là Đãi hiền lâu (lầu đợi hiền) [ ], cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Lúc bấy giờ thiên kinh vạn quyển đều nhòm xét ở cung tường Khổng Mạnh, tứ khoá tam truyện chẳng khiêm nhường Lục thao, Tam luợc của Tôn Ngô. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần nhiều dược mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng lời tâu lên vua:
-Bọn thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh thượng.
Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường.
Hùng Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo:
-Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy.
Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau:
-Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước?
Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đêm đủ lễ vật đến. Tuyền vương nói: “Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!”.Thuỷ Tinh tức giân bỏ về thuỷ cung.
Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận.
Tuyền vương nói:
-Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam .
Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: “Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?”
Từ đó Tuyền vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng vương bèn đắp thành ở Việt Thường [ ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Hùng vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp:
-Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong.
Tuyền vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Tuyền vương sai đào núi lên, thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Vương sai đốt huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết.
Từ đó việc đắp thành của Tuyền vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Thục vương mà dặn rằng:
-Quốc gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không có gì phải lo!
Hùng Tuyền vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là “Linh hoa kim trảo thần nỗ”. Sau khi đã có nỏ thần, Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện”
Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương:
-Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là cao!
Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.
Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đã trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
-Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối.
Thục An vương kế nối trị nước được 50 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu:
Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc,
Thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ
Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương,
Cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội [ ]
Rồi đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du Bắc Giang giao chiến với An vương. An vương lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ thần, không thể đối địch đựoc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An vương. An vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Triệu Đà vây áp đến nơi, An vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất.
Từ Triệu Vũ đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng thờ cầu chúc cho mệnh mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa.
Ô hô! Thịnh thay!
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt.
Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn.
Ngạn Xuyên NGÔ ĐỨC THỌ dịch
xong lúc 17g30 ngày 25-12-2011tại thư trai xóm Trúc (Đội Cấn, Hà Nội)
HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ
(Bản Hồng Đức nguyên niên)
BẢN DỊCH
Mục lục
1. KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王
2. LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王
3. HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王
4. HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王
5. HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王
6. HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王
7. HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王
8. HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王
9. HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王
10. HÙNG UY VƯƠNG 雄威王
11. HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王
12. HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王
13. HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王
14. HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王
15. HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王
16. HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王
17. HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王
18. HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王
CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN
TÍCH XƯA LƯU LẠI CỦA BẢN NGỌC PHẢ CHÉP TRUYỆN TIỀN THÁI TỔ CAO HOÀNG ĐẾ CỦA THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG SƠN THÁNH
[ĐẾ MINH 帝明] Cháu ba đời của vua Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi rồi đi tuần du phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam - xưa gọi là động Xích Quỷ, nguyên thuộc nước ta gọi là quận Giao Chỉ. Động Xích Qủy sau gọi là nước Xích Quỷ, nay đổi là nước An Nam) thì gặp nàng Vụ Tiên thần nữ, sinh ra Kinh Dương vương.
[Đời thứ 1]
KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王
Vua thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, phong cho Kinh Dương vương quay mặt về phương nam mà cái trị thiên hạ [tức là làm vua phương Nam], gọi tên là nước Xích Quỷ.
Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].
Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non]muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống).
Vùng này giáp biển ở cửa Hội Thốn, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cống
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua Kinh Dương bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Vua trải xem địa đồ, bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng xem cảnh trời nước. Vua chợt thấy một thiếu nữ lưng eo dung nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:
-Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
-Thiếp tên là Thần Long, là con gái vua Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu khăn.
Kinh Dương vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long thuyền. Vua cho quay thuyền trở về thành đô, lập Thần Long làm Cung vi chính khổn (Hậu cung Chính khổn)
Ngày sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. Thu tận hình thế, vua nhận ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài lại dựng đô thành Phong Châu ( nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (Đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, đến bắc Động Đình hồ, nam tiếp nước Hồ Tôn (nay là nước Chiêm Thành). Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại dựng ở núi Nghĩa Lĩnh, nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm nơi đóng đô ấp của nước Việt Thường. Bấy giờ vua đi tùân thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh vừa lúc cung phi con gái vua Thần Long có mang, rồng hiện điềm lành, khắp nhà rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt toả ra. Cung phi nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Lạc Long quân.
Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.
Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử.
Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chới ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi. Thề ròi Kinh Dương vương sai Lạc Long quân ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc nước.
Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, thọ 260 tuổi. Lạc Long nhiếp chính.
[Đời thứ 2]
LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王
Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương. Bấy giờ nàng Âu Lạc (tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sức sáng bừng đầu núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen).
Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng ống lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên thượng đế, Tứ phủ vạn linh.
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc:
Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước.
Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.
Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói:
Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh.
Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu đảo lớn.
Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành toả rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay toả khắp chốn núi sông.
Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng.
Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn:
Trời sinh bậc thánh,
Trị nước sinh vua,
Thanh bình bốn biển,
Thiên hạ vững yên.
Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên.
Bỗng thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền vương thấy 8 vị thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt,chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ (quá độ long cân?), tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên,mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được chuyện gì xẩy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha trị bình trong nước.
Tâu xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ.
Hiền vương thấy 100 con trai bỗng nhiên đã trở nên cao lớn, thân cao bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng chầu hai bên tả hữu. Các hoàng tử lạy mừng phụ hoàng. Hùng vương xuống chiếu truyền rằng:
Trăm con trời sinh của ta thánh văn thần vũ, hùng tài đại lược, giúp nước yên bình, thiên hạ ngước trông, thi nhân hoá đức, cha con vua tôi cùng vui.
Hiền vương cho triệu bách quan đến lạy mừng rồi cùng triều hội để nghị bàn quốc sự, đổi hiệu thay tên. Trăm con trai trăm hiệu, vị thứ cao thấp trước sau. Trăm hoàng tử đều có tư chất hơn người, anh hùng bậc nhất xưa nay, thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không ai dám phân biệt được trong các hoàng tử thì ai là người anh minh quyết đoán hơn, cho nên cũng khó đặt các danh hiệu. Triều đình tâu rằng:
-Nước có Thánh vương, sinh các hiền tướng, đều là những bậc trong triều không ai sánh bằng, vậy nên chúng thần không ai dám bàn định danh hiệu các hoàng tử. Kính thỉnh Thánh phụ xét tài của các hoàng tử để định danh hiệu.
Hiền vương phán rằng:
-Chính sự lớn của triều đình phải có người anh tài nổi bật mới có thể đảm đương được. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh đựoc trăm con trai. Nay trẫm muốn phong truyền chức quan cho các con, Trẫm thành tâm lập đàn chay, mật khấn Hoàng thiên cùng vạn linh ngự hội để đặt định danh hiệu trăm quan.
Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự nhiên có cảm ứng, có vị thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bền mời cụ già đến hỏi chuyện. Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi:
-Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho.
Tiên ông ha hả cười vang.
Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:
-Trẫm có điềm lành sinh đựoc trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đaọi khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho
Tiên Ông đáp:
-Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nuớc Nam Miên ngắm xem phong thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? Tiên Ông bèn xem mặt các hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiêc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại gọi 100 hoàng tử đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ. Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ.
Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi chính toạ ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ:
Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sau là Hoan Châu. bảy là Bố Chanh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
-Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính.
Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế đựoc rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hoá của thời thái cổ cũng không sánh kịp.
Hùng Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt.
Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, làm Động Đình đế quân.
[Đời thứ 3]
HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王
Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn, sau khi nối ngôi thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Hoàn vũ thanh bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc nhiều công hưng trị, càng sáng hơn các tiên vương, các đời đều tôn xưng là bậc hiền quân. Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ sơn tinh thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên thần phụ đạo; 50 trấn góc biển đều gọi là Thuỷ thượng linh thần, tiện cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc. Hùng Quốc vương hưởng ngôi hơn 221 năm, thọ 260 tuổi, sinh đựoc con trai con gái 50 hoàng tử.
[Đời thứ 4]
HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王
Thái tử Hùng Việp vương nối ngôi chính thống, nhớ công ơn sáng đẹp của tiền nhân để giáo hoá khích lệ sĩ phong. Lấy nhân nghĩa làm khuôn dân tục. Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hoá nhật thiên hạ sáng tưng bừng. Không đất nào không có nhân tài, trong hoà khí xuân phong vẳng nghe nhạc thiên uy, xuất hiện thái bình cảnh tượng. Ở đời có vầng sáng, thẳng thông với tiền nhân hướng trị thế cùng về. Vua hưởng ngôi 300 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Hy vương để kế thừa quốc thống.
[Đời thứ 5]
HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王
Hùng Hy vương lên ngôi, nắm vận lớn bốn đời, nhạy bén hưng khởi trị bình, trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự. Từ đó người xa bắc thăng trèo núi mà đến, vượt biển mà sang, chẳng đâu không thần phục, chốn xa nơi vắng, thảy đều thấm nhuần mỹ hoá thuần phong, trị công lỗi lạc, so với tiền vương không thẹn, đủ làm một đấng vua hiền. Hùng Hy vương hưởng quốc lịch 200 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Huy vương kế thừa quốc chính.
[Đời thứ 6 ]
HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王
Huy vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng:
- Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc.
Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần:
-Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức.
Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: ” Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong ngước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào?
Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: “Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế?
Ngọc Hoàng phán:
-Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc [1] , có cầu có nguyện tất được tòng tâm.
Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau [nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn!
Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không. Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế:
-Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân!
Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả xuống.
Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương:
-Vua biết hối lỗi, đã đựoc Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều!
Vua tin lời.Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng:
-Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
-Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước.
Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong dóng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: “Con ta chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ”. Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói:
-Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!”
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói:
-Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa!
Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 50 trăm (=5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Thiết Đổng nói:
Vua theo đúng hẹn,
Vận nước lâu bền.
Quân giặc phải tan,
Một ngày giúp nước,
Thiên cổ danh vang.
Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: “Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả”.
Dân lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân.
Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc.
Thiết Đổng lạy tạ mẹ:
-Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng!
Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm:
-Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá.
Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ.
Vua lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa Lĩnh làm Kính Thiên linh điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam . Hùng Huy vương hưởng nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền Tốn).
[Đời thứ 7]
HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王
Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống.
Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi đựoc kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ. Vua bèn ngự điện Kinh Thiên, cho xây cất Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) vua đều trai giới lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên, hoá sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương,Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự ( nay đổi là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo. Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức.
Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, uớc nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa.
Lão ông nói:
-Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông”
Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.
Bấy giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng:” Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho đựoc quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho”.
Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào.
Thiên vương nói:
-Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo.
Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi.
Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ “Thiên Linh ấn”, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ “Thiên Lĩnh nhẫn”( nhẫn cũng là kiếm).
Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu:
-Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng.
Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: “Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh”.
Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng:
“Tây đại sơn nhân thượng [ ]
Bất kiến tâm hạ tướng.
Hội đông túc danh nhân
Doãn cư thượng khẩu vượng
Chiêu vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: “Nhà nàng ở đâu?” Cô gái đáp:
-Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh.
Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt. [ ]
[Đời thứ 8]
HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王
Hùng Vĩ vương nối vị, kế thừa ngôi báu các đời tiên vương . Lúc mới nắm quyền, các việc chính sự thi thố kể cũng khả quan. Vương thấy lấy ấn kiếm đưa cho quần thần xem mà bảo: “Trẫm có hai vật báu linh thiêng, lo gì không trị được thiên hạ?” Từ đó thần uy của Vĩ vương càng chấn động, thanh thế lên cao, những kẻ gian phu trong bốn phương thảy đều vỡ mật run tim. Trong nước thái hoà, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là bậc vua hiền. Hiền Vĩ vương hưởng nước đựoc 100 năm thì băng.
Truyền đến:
[Đời thứ 9]
HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王
ở ngôi 80 năm.
[Đời thứ 10]
HÙNG UY VƯƠNG 雄威王
ở ngôi 90 năm.
[Đời thứ 11]
HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王
ở ngôi 170 năm.
[Đời thứ 12]
HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王
ở ngôi 96 năm.
[Đời thứ 13]
HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王
ở ngôi 105 năm.
[Đời thứ 14]
HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王
ở ngôi 99 năm.
[Đời thứ 15]
HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王
ở ngôi 94 năm.
[Đời thứ 16 ]
HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王
ở ngôi 92 năm.
Trải qua 16 đời, đều xưng hiệu là Trị Bình Kiến Phu治平建夫.
[Đời thứ 17]
HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王
Thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, vương sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết
Bấy giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị vương. Hùng Nghị vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị vương, nói: “Quân Thục từ phía tây đến chỉ muốn bắt bộ chủ [Ai Lao] để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua?
Nghị vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bèn bắt được bộ chủ [Ai Lao] đem về nước mình, gả công chúa rồi nhường ngôi cho [người chủ bộ cũ của bộ Ai Lao ấy]. Thục vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị vương, xin coi nước Nam là huynh, nước Tây (Thục) là đệ, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị vương bằng lòng như thế. Từ đó nước Tây (Thục) và nươc Nam ta hưu binh. Hùng Nghị vương ở ngôi 160 năm, lập Thái tử là Hùng Tuyền vương.
[Đời thứ 18]
HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王
Tuyền vương [ ] kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện cho mệnh mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện của các tỏ tong cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao,lâu đài muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc. Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữa phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam ). Còn Mỵ nương công chúa, phụ vương có ý kín muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định. Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là Đãi hiền lâu (lầu đợi hiền) [ ], cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Lúc bấy giờ thiên kinh vạn quyển đều nhòm xét ở cung tường Khổng Mạnh, tứ khoá tam truyện chẳng khiêm nhường Lục thao, Tam luợc của Tôn Ngô. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần nhiều dược mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng lời tâu lên vua:
-Bọn thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh thượng.
Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường.
Hùng Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo:
-Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy.
Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau:
-Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước?
Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đêm đủ lễ vật đến. Tuyền vương nói: “Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!”.Thuỷ Tinh tức giân bỏ về thuỷ cung.
Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận.
Tuyền vương nói:
-Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam .
Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: “Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?”
Từ đó Tuyền vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng vương bèn đắp thành ở Việt Thường [ ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Hùng vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp:
-Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong.
Tuyền vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Tuyền vương sai đào núi lên, thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Vương sai đốt huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết.
Từ đó việc đắp thành của Tuyền vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Thục vương mà dặn rằng:
-Quốc gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không có gì phải lo!
Hùng Tuyền vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là “Linh hoa kim trảo thần nỗ”. Sau khi đã có nỏ thần, Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện”
Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương:
-Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là cao!
Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.
Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đã trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
-Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối.
Thục An vương kế nối trị nước được 50 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu:
Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc,
Thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ
Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương,
Cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội [ ]
Rồi đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du Bắc Giang giao chiến với An vương. An vương lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ thần, không thể đối địch đựoc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An vương. An vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Triệu Đà vây áp đến nơi, An vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất.
Từ Triệu Vũ đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng thờ cầu chúc cho mệnh mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa.
Ô hô! Thịnh thay!
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt.
Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn.
Ngạn Xuyên NGÔ ĐỨC THỌ dịch
xong lúc 17g30 ngày 25-12-2011tại thư trai xóm Trúc (Đội Cấn, Hà Nội)
ÂY PHẢ HỆ DÂN TỘC THEO “NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG”
Các chư vị sỹ phu yêu nước âm thầm, dũng cảm, nghiêm túc, kính cẩn ghi chép, phụng sao “Ngọc phả Hùng Vương” lưu dấu nhằm để lại cho đời sau. Hiện tại mới tìm được một số bản “Ngọc phả Hùng Vương” được các sỹ phu ở nhiều nơi ghi chép. Mỗi bản có các chi tiết rộng hẹp, nhưng nói chung nội dung chính đều thống nhất.
CÂY PHẢ HỆ VIỆT TỪ THỜI PHỤC HY
Bảng biểu Cây phả hệ dân tộc trong các ảnh post dưới đây dựa theo bộ tài liệu ở “Nguyễn tộc từ đường” thuộc xã Phú Lương, Thanh Oai, Hà Tây (nay là Hà Nội) gồm bốn tập:
Tập I-II: Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư
Tập III: Nguyễn tộc từ đường,
Tập IV: Bách Việt Nguyên Trưởng Chú Giải
Tập III: Nguyễn tộc từ đường,
Tập IV: Bách Việt Nguyên Trưởng Chú Giải
Chư vị tiền nhân của dân tộc ghi chép về Tổ tiên dân tộc thời dựng nước với tinh thần, ý thức: Dũng cảm, nghiêm túc, thành kính. Trong quá trình dịch thuật, có một số khía cạnh chưa thật thống nhất. Chúng tôi mạo muội tổng hợp, sắp xếp thế thứ các đời chư vị Liệt tổ - Liệt tông – Tổ mẫu dân tộc theo biểu có tên “Tổ tiên dân tộc Việt thời dựng nước”.
MỘT SỐ THÔNG TIN TRONG NGỌC PHẢ
Trong bộ Ngọc phả có nhiều thông tin chúng tôi xin trích một số thông
tin cần lưu ý:
- Phục Hy:
“Thuở khai sinh lập địa, Tổ tiên chúng ta sinh cơ lập nghiệp ở Tây Vực (phía Tây, Hòa Bình) thủy chung đã 7.000 năm rồi… Ruộng đất màu mỡ, dân cư xum họp, thịnh vượng, nhân vật luôn luôn không thiếu. Muôn đời tôn xưng người đứng đầu (vua cả) là Phục Hy, tên nước Cực Lạc, đóng đô ở đó, từ đấy về sau cày cấy (lấy gạo), đào giếng (lấy nước) nên gọi là Phục Hy”
tin cần lưu ý:
- Phục Hy:
“Thuở khai sinh lập địa, Tổ tiên chúng ta sinh cơ lập nghiệp ở Tây Vực (phía Tây, Hòa Bình) thủy chung đã 7.000 năm rồi… Ruộng đất màu mỡ, dân cư xum họp, thịnh vượng, nhân vật luôn luôn không thiếu. Muôn đời tôn xưng người đứng đầu (vua cả) là Phục Hy, tên nước Cực Lạc, đóng đô ở đó, từ đấy về sau cày cấy (lấy gạo), đào giếng (lấy nước) nên gọi là Phục Hy”
- Đế Thần:
“Đế Thần là con Đế Viêm, còn trẻ tự xưng là Thần Nông. Đế Thần cai
quản từ Trường Giang trở về Nam… Ông dạy dân làm ruộng là chính.
“Đế Thần là con Đế Viêm, còn trẻ tự xưng là Thần Nông. Đế Thần cai
quản từ Trường Giang trở về Nam… Ông dạy dân làm ruộng là chính.
-Thần Nông lấy lá chữa bệnh, cứu dân độ thế… Thần Nông còn phát
minh ra nghề cấy trồng lúa nước và phát minh sáng chế ra lưỡi cày
bằng gỗ cứng để cho dân sử dụng làm ruộng. Người dân làm ruộng,
cày cấy lúa nước thường lấy vỏ cây che thân để chắn bùn gọi là cái
thường (tức là cái váy, cái xiêm) lan rộng từ Nam đến Bắc. Do đó
người ta thường gọi là họ Việt thường”
minh ra nghề cấy trồng lúa nước và phát minh sáng chế ra lưỡi cày
bằng gỗ cứng để cho dân sử dụng làm ruộng. Người dân làm ruộng,
cày cấy lúa nước thường lấy vỏ cây che thân để chắn bùn gọi là cái
thường (tức là cái váy, cái xiêm) lan rộng từ Nam đến Bắc. Do đó
người ta thường gọi là họ Việt thường”
- Kinh Dương Vương: “Kinh Dương Vương lấy Động Đình Quân Nữ, cư ở Nghĩa Lĩnh dựng nước, nghìn dặm núi xanh, sáng lập kinh đô Hùng, nền móng cung điện, nước biếc một vùng, mở đầu con đường thánh đế minh vương, giúp người, quý vật, thống nhất 15 bộ, là ông Tổ dựng nên Bách Việt vậy”.
Tóm tắt một số thông tin khác:
- Sau nhiều ngàn năm dựng nước trên địa bàn gốc, đất chật, người đông, từng đợt người ra đi tìm vùng đất mới, khi người đã đông, cộng đồng dân cư ở đây, người đến trước tên để ở trên, người đến sau đặt dưới để chỉ cội nguồn là người Việt – Ví dụ: Sở Việt, Ngô Việt, Khương Việt, Bộc Việt, Thái Việt, Thục Việt và dần hình thành Bách Việt.
- Người dân gốc Phong Châu ra đi khai khẩn vùng đất mới đã mang
theo một vài địa danh gốc để đặt tên cho vùng ở mới.
theo một vài địa danh gốc để đặt tên cho vùng ở mới.
- Trong Ngọc phả Hùng Vương có bài thơ:
“Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương
Thống nhất sơn hà thập bát Vương
Dư bách hệ truyền thiên cổ tạc
Ức niên hương hỏa ức niên phương
“Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương
Thống nhất sơn hà thập bát Vương
Dư bách hệ truyền thiên cổ tạc
Ức niên hương hỏa ức niên phương
THÔNG TIN TRÙNG KHỚP VỚI THỰC TẾ VÀ KHOA HỌC
Đối chiếu thông tin trong Ngọc phả Hùng Vương với thực tế hiện nay ta thấy có sự trùng khớp như sau:
- Vị trí cư trú của Tổ tiên ta thời dựng nước trùng khớp không gian và
tiếp nối thời gian với vị trí cư trú của cư dân nền văn hóa Hòa Bình.
tiếp nối thời gian với vị trí cư trú của cư dân nền văn hóa Hòa Bình.
- Cương vực cư trú của dân cư thời Hùng Vương được ghi trong Ngọc phả Hùng Vương hiện vẫn còn dấu tích.
- Mộ phần của từng Liệt vị Tổ tiên rất khiêm nhường không phải thành quách, lăng mộ uy nghi, nhưng nhân dân vẫn thủy chung bảo vệ, giữ gìn đến nay.1
- Từng Liệt vị Tổ tiên thời dựng nước đều có pháp danh, nhân dân đời đời ghi nhớ tôn kính đã dựng tượng, lập đền, miếu, đình, chùa để thờ cúng, hương khói hàng nghìn năm qua và đã trở thành truyền thống, đạo lý riêng thờ cúng Tổ tiên của dân tộc.2
- Vị trí kinh đô cổ các đời hiện còn dấu tích và đó cũng là địa linh của đất nước
- Thế thứ các đời của Tổ tiên dân tộc thống nhất với chính sử và lấp đầy các khoảng trống, khoảng mờ trong chính sử.
( Theo TỔ TIÊN CHÚNG TA RỰC RỠ - Trung tâm văn hoá người cao tuổi)
ùng Linh Công là cháu ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu, ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng với Thánh Gióngđánh tan giặc Ân. Ông được vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc, ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình cho dân. Ông sinh ra và mất trên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thờ ở Đền IA[1] khoảng 3700 năm nay.
Mục lục
[ẩn]Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Tiểu sử chi tiết về Thánh Hùng Linh Công được ghi trong cuốn Ngọc phả quốc lục. Cuốn sách còn lưu lại tại Đền IA (tức Đền Y Sơn) thuộc xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang do Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ thần Nguyễn Bỉnh phụng soạn vào niên hiệu Hồng Phúc, triều đại Sùng Khang năm Nhâm Thân (1572). Đến niên hiệu Vĩnh Hựu thứ ba, triều đại Lê Y Tông (Duy Thận) năm Đinh Tỵ (1737), Hồng Lĩnh thiếu khanh thuộc Quản giám bách thần tri điện là thần Nguyễn Hiền Mại căn cứ vào bản của triều trước chép lại. Toàn bộ cuốn Ngọc phả quốc lục về Y Sơn linh tích được khắc trên hai mặt bia đá (mặt tiền và mặt hậu) hiện còn dựng trong Đền IA, bia dựng năm Bính Thìn 1856 niên hiệu Tự Đức năm thứ 9, triều đại Nguyễn Dực Tông (Hồng Nhậm).
Sau khi cuốn Ngọc phả quốc lục ra đời, 13 triều đại sau đó từ 1660 - 1925 đã có 21 đạo sắc phong cho Hùng Linh Công (hiện vẫn còn lưu giữ tại Đền IA). Nhiều đạo sắc phong có độ dài gần 300 từ.
Toàn văn Ngọc phả quốc lục[2][sửa | sửa mã nguồn]
1. Theo Ngọc phả quốc lục về Linh tích Y Sơn, Huy chính công thần, cháu của Hùng Vương (cũng là Sơn thần nhạc phủ thứ ba).
2. Xưa, tiền triều hoàng đế, thiên nam đại bảo, thánh tổ sơn nguyên Hùng Vương khởi nghiệp thủy tổ Việt Nam đi mở nước.
3. Cổ xưa 18 đời thánh vương huyền thoại, ngự trị trời nam sáng lập ra nước Việt trên dòng nước trong xanh, gây vận thánh đế, vương minh trên vạn dặm, non cao đặt nền móng đô thành cung điện, mở cõi chăn dân thống nhất 15 bộ.
4. Tích kể rằng, thời Hùng Vương, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ lập làm chính cung. Âu Cơ mang thai 3 năm 30 ngày sinh một bọc có trăm trứng nở ra trăm người con. Thật là một điều lành, cả 100 con đều anh hùng lừng thế, dũng lược hơn người. Long Quân lập con trưởng làm Vua. Các con còn lại đều phong hầu chia ra các vùng cai quản. Thứ nhất Sơn Tây, thứ nhì Sơn Nam, thứ ba Hải Dương, thứ tư Kinh Bắc, thứ năm Ái Châu, thứ sáu Hoan Châu, thứ bảy Ô Châu, thứ tám Đôn Châu, thứ chín Tam Kỳ, thứ mười Hưng Hóa, thứ 11 Cao Bằng, thứ 12 Lương Sơn, thứ 13 Tuyên Quang, thứ 14 Quảng Tây, thứ 15 Quảng Đông.
5. Vua bảo Âu Cơ rằng, ta là nòi Rồng, nàng là giống Tiên hai bên Tý - Ngọ khác nhau, thủy hỏa xung khắc. Nay chia ra 50 con theo cha về biển lập Hải Đế, 50 con theo mẹ lên núi lập Sơn Thần. Cả hai đều có góc biển, chân trời trấn giữ một phương để trị vì gọi là chủ trị, dân gọi là bách tính, phong chức là bách thần, mãi mãi là con cháu Hùng Thị, giữ vững phên giậu, kế thừa nghiệp lớn muôn đời.
6. Vua trị quốc hơn 30 năm, giữ vững tông miếu tổ tiên, khắp nơi trong ngoài bái phục, thu phục hàng trăm vương đế nam bang, ngự trị hàng ngàn năm thánh điện Hùng Vươngnam thiên tổ địa, cương thường trật tự vững bền lưu truyền vạn cổ. Lại lập thêm lăng cung điện miếu, con cháu nhỏ thuộc tôn phái hoàng gia chia đều để ở, đều hưởng lộc hương hỏa đời đời.
7. Đời Hậu Lê có thơ:
Việt Nam dựng nước tự vua Hùng
Đức sánh càn khôn mãi mãi cùng
Mười tám đời vua, dòng thánh triết
Một trăm quả trứng, giống tiên rồng
Hai ngàn năm lẻ, truyền thanh sử
Nước Việt xưa ghi, nét ngọc chương
Muôn thuở như còn đây chẳng tắt
Non sông lưu mãi tượng thơm chungùng Linh Công là cháu ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu, ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng với Thánh Gióngđánh tan giặc Ân. Ông được vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc, ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình cho dân. Ông sinh ra và mất trên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thờ ở Đền IA[1] khoảng 3700 năm nay.
Mục lục
[ẩn]Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Tiểu sử chi tiết về Thánh Hùng Linh Công được ghi trong cuốn Ngọc phả quốc lục. Cuốn sách còn lưu lại tại Đền IA (tức Đền Y Sơn) thuộc xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang do Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ thần Nguyễn Bỉnh phụng soạn vào niên hiệu Hồng Phúc, triều đại Sùng Khang năm Nhâm Thân (1572). Đến niên hiệu Vĩnh Hựu thứ ba, triều đại Lê Y Tông (Duy Thận) năm Đinh Tỵ (1737), Hồng Lĩnh thiếu khanh thuộc Quản giám bách thần tri điện là thần Nguyễn Hiền Mại căn cứ vào bản của triều trước chép lại. Toàn bộ cuốn Ngọc phả quốc lục về Y Sơn linh tích được khắc trên hai mặt bia đá (mặt tiền và mặt hậu) hiện còn dựng trong Đền IA, bia dựng năm Bính Thìn 1856 niên hiệu Tự Đức năm thứ 9, triều đại Nguyễn Dực Tông (Hồng Nhậm).
Sau khi cuốn Ngọc phả quốc lục ra đời, 13 triều đại sau đó từ 1660 - 1925 đã có 21 đạo sắc phong cho Hùng Linh Công (hiện vẫn còn lưu giữ tại Đền IA). Nhiều đạo sắc phong có độ dài gần 300 từ.
Toàn văn Ngọc phả quốc lục[2][sửa | sửa mã nguồn]
1. Theo Ngọc phả quốc lục về Linh tích Y Sơn, Huy chính công thần, cháu của Hùng Vương (cũng là Sơn thần nhạc phủ thứ ba).
2. Xưa, tiền triều hoàng đế, thiên nam đại bảo, thánh tổ sơn nguyên Hùng Vương khởi nghiệp thủy tổ Việt Nam đi mở nước.
3. Cổ xưa 18 đời thánh vương huyền thoại, ngự trị trời nam sáng lập ra nước Việt trên dòng nước trong xanh, gây vận thánh đế, vương minh trên vạn dặm, non cao đặt nền móng đô thành cung điện, mở cõi chăn dân thống nhất 15 bộ.
4. Tích kể rằng, thời Hùng Vương, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ lập làm chính cung. Âu Cơ mang thai 3 năm 30 ngày sinh một bọc có trăm trứng nở ra trăm người con. Thật là một điều lành, cả 100 con đều anh hùng lừng thế, dũng lược hơn người. Long Quân lập con trưởng làm Vua. Các con còn lại đều phong hầu chia ra các vùng cai quản. Thứ nhất Sơn Tây, thứ nhì Sơn Nam, thứ ba Hải Dương, thứ tư Kinh Bắc, thứ năm Ái Châu, thứ sáu Hoan Châu, thứ bảy Ô Châu, thứ tám Đôn Châu, thứ chín Tam Kỳ, thứ mười Hưng Hóa, thứ 11 Cao Bằng, thứ 12 Lương Sơn, thứ 13 Tuyên Quang, thứ 14 Quảng Tây, thứ 15 Quảng Đông.
5. Vua bảo Âu Cơ rằng, ta là nòi Rồng, nàng là giống Tiên hai bên Tý - Ngọ khác nhau, thủy hỏa xung khắc. Nay chia ra 50 con theo cha về biển lập Hải Đế, 50 con theo mẹ lên núi lập Sơn Thần. Cả hai đều có góc biển, chân trời trấn giữ một phương để trị vì gọi là chủ trị, dân gọi là bách tính, phong chức là bách thần, mãi mãi là con cháu Hùng Thị, giữ vững phên giậu, kế thừa nghiệp lớn muôn đời.
6. Vua trị quốc hơn 30 năm, giữ vững tông miếu tổ tiên, khắp nơi trong ngoài bái phục, thu phục hàng trăm vương đế nam bang, ngự trị hàng ngàn năm thánh điện Hùng Vươngnam thiên tổ địa, cương thường trật tự vững bền lưu truyền vạn cổ. Lại lập thêm lăng cung điện miếu, con cháu nhỏ thuộc tôn phái hoàng gia chia đều để ở, đều hưởng lộc hương hỏa đời đời.
7. Đời Hậu Lê có thơ:
Việt Nam dựng nước tự vua Hùng
Đức sánh càn khôn mãi mãi cùng
Mười tám đời vua, dòng thánh triết
Một trăm quả trứng, giống tiên rồng
Hai ngàn năm lẻ, truyền thanh sử
Nước Việt xưa ghi, nét ngọc chương
Muôn thuở như còn đây chẳng tắt
Non sông lưu mãi tượng thơm chung
25. Giặc tan, Hùng Linh Công thanh bình lui quân về xã Hiệp Hòa (nơi dưỡng binh trước khi cự chiến) thì dừng tại đấy. Nhằm vào ngày 8 tháng 8, đột nhiên nghe ba tiếng sét, trời đất mây mưa mù mịt, từ trên đỉnh núi đến đền Linh Công (đền thờ khi Ngài còn sống) đều tối đen. Binh sĩ, nhân dân sợ hãi, hoảng hốt chạy ra ngoài trời phủ phục cầu xin, thì thấy từ trong cung, Hùng Linh Công cưỡi trên con hổ đen, tay cầm thanh Kim đao từ từ bay lên, đến đầu núi thì biến (Núi này, trước đây ông bà Hùng Nhạc vào đến chân núi trông thấy ngôi chùa. Đêm cầu mộng tại ngôi chùa dưới chân núi này, Ngài mơ màng nghe có tiếng đọc thơ rồi sinh ra Hùng Linh Công).
26. Sau đó mây tan, mưa tạnh trời đất sáng sủa lại thì cũng là lúc Hùng Linh Công đã hóa (gọi là ngày Thánh hóa). Nhân dân lấy y chính cung lập thành đền để thờ cúng. Đồng thời làm biểu tấu lên Vua. Vua sai trăm quân đem sắc chỉ, mũ áo đến nơi làm lễ và truyền cho chúng dân tu sửa nơi đền miếu tế tự hương hỏa vô cùng, yên nghỉ cùng đất nước trường tồn thịnh vượng. Lại sắc phong mỹ tự Y Sơn linh tích đại vương. Đồng thời cho phép xã Hiệp Hòa [tức xã Thù Sơn ngày nay] là nơi sinh ra chú bé được phụng tế. Hàng năm xuân thu nhị kỳ sai trăm quan về tế lễ.
No comments:
Post a Comment