VAI TRÒ ÔNG THẦN NÔNG
Các nứơc Á Châu như Trung quốc và Đông Nam Á có Việt nam – hay văn minh Đại Việt có người gán cho là văn minh làng xã văn minh lúa nứơc . Nhất là riêng ở Việt nam xứ nông nghiệp cả Trung quốc hiện 90 % là nông dân … Việt – Hoa ở gần nhau . Có lúc hòa mục , cũng có lúc vờn nhau như mãnh hổ và thanh long .
Nếu Trung Quốc là cọp là hổ thì Việt nam là rồng chứ không hề chịu thua kém gì . Ông cha đã xưng là Văn Lang là nước của người có văn hiến – có học có đạo đức của Trời sáng sủa rọi hồng ân khắp nơi .
‘’ Trông trời , trông nắng … trông mưa !’’ . vai trò nông dân và nông nghiệp là quan trọng hơn hết . Ta không đi vào tính xã hội của làng nứơc , ta chỉ đặt riêng vấn đề tâm linh , ngừơi Tàu thờ Thần Nông Nghiệp thì người Việt cũng có cụ tổ Nông nghiệp là Thần Nông .
Và Thần Thọai lịch sử đem cả truyền thuyết gán cho Việt Nam có liên hệ đến cụ Thần Nông của Tàu .
Đúng là Tàu Việt đề huề cho nó có cái tình hòa hảo lân bang thôi . Tất nhiên là Thần Nông của Việt khác Thần Nông của Tàu .
Thần Sông , Thần Núi Hồng Lĩnh , Núi Đồng Cổ , Núi Tổ Tản Viên khác với Ngũ Đại Sơn của Tàu .
Tuy tín ngưỡng đều tương cận , tương đồng nhau – vì biên giới Việt và Hoa chỉ bước một bước thôi là đã sang nứơc bạn .
Thời đại hòa bình mới , cũng không nên nói chuyện cũ …,
Học để rút ra kinh nghiệm giữ nước của Thần Đạo – lúc hòa bình thì dĩ hòa vi quý – không nên phân biệt đối đãi nhau . Người Việt chấp nhận văn hóa Khổng mạnh – người Tàu chấp nhận văn hóa Thần linh – cùng tồn tại hòa bình .
Trên thế giới ngày nay văn hoá Âu Tây – Mỹ Châu – Phi Châu – Á Châu tuy có khác biệt về bản sắc riêng , nhưng cũng có điều tương đồng cần thiết là vấn đề tự do – nhân bản – kinh tế và văn hóa tòan cầu – điểm chung này nước nào đã văn minh thì phải có cả
Văn hóa Đại Việt – văn hóa Thần tiên hang động núi sông hòa hợp với Tam giáo – thành Đồng nguyên Tứ đại giáo .
Tuy nhiên về mặt tâm linh cao sâu là văn hóa Đông Sơn – Cổ Mộ và văn hóa Tiên Tri của người Việt . Đời nhà Mạc , cụ Trạng trình đã viết ra Sấm Trạng Trình . Đời Lý , thiền sư Vạn hạnh cà các khai quốc công thần của Lý Công Uẩn cũng nhờ sấm ký , tiên tri lời văn ẩn dụ báo hiệu nhà Lê đổ họ Lý lên thay – và lòng dân luôn tin theo như tin lời hát của vị Thần tiên trên sông Như Nguyệt về bài tuyên ngôn độc lập của Lý Thường Kiệt
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Đến thời Lê chống quân Minh thì lá cây rừng có chữ việt của Thần linh báo tin rõ cho dân ‘’ Lê Lợi vi quân , Nguyễn Trãi vi Thần ‘’
Tất cả sấm , hay lời tiên tri từ sấm ký , từ lá cây , từ lời Thần ở đền Trương Hống , Trương Hát cho đến Sấm Trạng trình tiên tri lịch sử dân tộc hằng vài trăm năm . Phải nói là chỉ có dân Đại Việt mới đặc biệt có văn hóa tiên tri sâu kín và lớn lao , thành công nhất cho sự nghiệp lập nước , giữ nước đời đời những nhà tiên tri từ Hy Lạp , từ Ấn Độ , Trung Quốc cũng đều có , sau thời đại Pháp sư từ thượng cổ .
Về cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm .
Nói về văn chương siêu hình , tâm linh kỳ quặc , trữ tình siêu thực hóa Hồ Ly thành mỹ nhân làm say đắm lòng người hư hư thực thực thì Tàu có một Bồ Tùng Linh với Liêu trai Chí Dị - đem tâm tình dẫn dắt lịch sữ theo kỳ vọng thầm kín của nhà tiên tri siêu phàm mà các thánh nhân muôn đời xưa nay ít có ai thực hiện thành công , đúng với tinh thần Vô Vi của Lão tử - làm như mà không làm .
Có lẽ chúng ta phải trầm tư suy diễn nhiều hơn về cuộc thế từ khi có cụ Trạng cho tới khi nhà Nguyễn mở nước phương Nam đến tận ngày nay . Thế cuộc xoay vần , cụ Trình như một vì tinh tú , soi sáng cả vũ trụ càn khôn , và bờ cõi Việt vẫn còn đang trôi nổi trên giòng sông vô tận của Thời – Không gian – lớp lớp trôi mãi vào cõi vĩnh hằng .
Tinh Thần ‘’ Quốc gia ‘’ có từ thời nhà Trần . đời Lý các nhà sư được phong là quốc sư như Viên chiếu , Thông Biện , Viên Thông , Không Lộ đều được ban hiệu quốc sư .
Câu chuyện Pháp sư Cao Biền cao tay ấn của Tàu còn phải chịu thờ Thần Long Đỗ của nước Việt thì biết tài phép lạ thường của người Việt cổ vô cùng cao diệu vậy
Ta có thể ví tinh thần Việt hóa đã cực mạnh đến đạo Phật . Chẳng khác nào Quốc hữu hóa văn hóa nhà Phật để sự dụng trong triều đình . Sau đến đời Trần , Trần Thủ Độ tiêu diệt hết vua quan nhà Lý , lúc đó các nhà sư sãi cũng bất lực , không bảovệ được Lý triều và Nho giáo , cả Thần đạo cực thịnh .
Năm 1520 vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là ‘’ Quốc Gia ‘’ . thể hiện sự đồng nhất ngôi vua với biểu tượng đất nước ( văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt )
Chúng ta khó mà đồng quan điểm một cách ‘’ câu nệ ‘’ hay chủ quan của ông , về văn hóa lúa nước ! Chúng ta thấy tùy theo triều đại mà nền văn hóa chủ động theo chánh sách của triều đại ấy .
Thời Hùng Vương văn hóa Văn Lang Thần Đạo , thời Thục Phán văn hóa Thần đạo thờ Thần linh , các đền miếu được dựng lên như Phù Đổng Thiên Vương , Thần Đồng Cổ , Thần Kim Qui v..v.. . Và văn minh đó được thể hiện trong miếu đình lan tỏa ra xã hội . Những hương ước , những tộc họ đều làm ở đình . và có dấu ấn của đình , của vị Thần linh là Thành Hòang chứng giám trong các lễ cúng Thần – cúng miếu .
Thời Lý tuy trọng Phật giáo mà vẫn bắt các quan ăn thề ở Đền Đồng Cổ - mỗi làng đều có Thần làng Thành hòang bổn cảnh – văn hóa cái đình quan trọng hơn cả .
Đình thờ linh Thần – tất nhiên là Thần đạo Việt Nam .
Đời Trần còn trọng Nho giáo – cả nhà vua đưa Thiền Tông Trúc Lâm lên cao tột đỉnh – đỉnh núi Yên Tử - nhưng vẫn ở trong lòng Trời đất – Quốc gia – Xã hội Việt nam , Và Thần Đạo vẫn bao trùm đời sống tâm linh ‘’ Thiên lý tại nhân tâm ‘’ vạn vật ư linh . Bấy giờ có tinh Thần quốc gia của vua Trần – tuy là thấy có vẻ nôm na , không ra chữ nghĩa gì , khi nhà vua xưng mình là Quốc Gia – nhưng Quốc gia – đồng thể với đất nước – dân tộc giống nòi Hồng Lạc .
Văn hóa Nho của Tàu bị đồng hóa triệt để , để làm cho văn hóa Việt thêm chặt chẽ về tư tưởng và phổ quát về tâm linh Thần . Văn hoá Phật giáo và Ấn Độ giáo ‘’ chịu sự cô đọng lại thành một điểm duy nhất – quan trọng nhất là Phật giáo Thiền Tông do vua Trần nắm giữ .
Các quốc sư Phật giáo không còn nắm giữ trọng trách như thời Lý – mà trí thức Phật xoay về chùa chiền . Nam tông , Bắc tông , Vô ngôn tông v..v.. đều không còn hiện thực ồn ào kinh kệ nữa và hóa cõi hồng trần thành chốn thiền môn cửa Phật , biến hiện thực thành duy tâm – linh thần .
Lúc đó tất cả miếu đền , đình , quán đều xây dựng ngày càng nhiều hơn . Các vị Thần Linh như Thần Đồng Cổ , Linh Lang – các vị tổ như Mẹ Âu Cơ - Thần Phù Đổng . Thần Kim Qui , Linh Lang Đại Vương và chư Thần đều hiện hữu để hướng đạo cho sự thờ cúng , hành sử , đời sống xã hội như đồ vật , được thờ như tổ nghề võ Việt , các Thần thi của Trần Nhân Tôn , Trần Khánh Dư , các hịch truyền động viên tướng sĩ đánh giặc . Cả Vạn Kiếp Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược của Đức Thần Võ Tướng Quân Trần Quốc Tuấn đều xuất hiện .
Tinh Thần chiến đấu của Thần Đồng Cổ , Thần Long Đỗ , của Huyền Thiên Trấn Vũ , của Hai Bà Trưng , Bà Triệu nổi lên như sấm vang . Giặc Mông Cổ vỡ tan vì nghe tiếng trống đồng Đại Việt .
Sự Anh linh của tổ tiên – sự hiển hách của chư Thần hòa quyện cùng tinh thần chiến đấu của Linh Lang Đại Vương , cùng tòan dân Lạc Hồng thề ‘’ sát đát ‘’ giết giặc – nào Trần Quốc Tỏan còn thanh thiếu niên vẫn nêu cao ngọn cờ ‘’ phá cường địch , báo hòang ân ‘’ . Vì hòang ân là vua , vì vua là quốc gia dân tộc .
Dân tộc Đại Việt đã đánh bại quân thù vang rền núi sông và cả thế giới .
Trận đánh Thần thánh đó là trận bại cuối cùng lớn nhất của tòan quân Mông Cổ trứơc khi cả triều đại Mông Cổ cáo chung trên thế giới .
Nếu dân tộc Đại Việt không mở cờ của Thần Chiến Thắng Đồng Cổ - Kim Qui thì khó mà có tinh Thần mưu lược nào vĩ đại hơn để thành công . Một đại thành công với một hành động phi thường , mà triều đình nhà Trần đã thừa hưởng từ tinh thần Đại Việt Đại Hành , của các đế vương để lại .
Những điều cơ bản của người Minh Triết Đại Việt Thần Đạo và vấn đề sau đây :
- Thân danh và lịch sử
- Sống và chết tôn thờ sông núi
- Coi thiên nhiên ‘’ cây cổ thụ ‘’ như như bản thân mình .
- Trọng sự sống và kính sự chết , thờ tổ tiên
- Tôn sư trọng đạo .
Như đã nói dân tộc Việt lúc mới mở nước , Hùng vương đã đặt quốc hiệu là Văn Lang , là nước của người hiền lương , có văn hiến sáng rực dưới trời Nam .
Với nhân dân , đức tổ Hùng Vương đã có ý hướng rất tốt đẹp khi người xưng quốc hiệu Văn Lang đó . Người muốn cho tòan dân phải chăm chỉ dùi mài kinh sử , lo việc học hành để thành một người có học , có đức hạnh . và một nước có văn hóa cao – đạo lý tốt đẹp .
Bản thân của người Việt thưở ban sơ đã được Đức sáng tổ dạy dỗ như thế , cho nên suốt mấy ngàn năm , noi gương Người . Dân tộc Việt đã giữ gìn truyền thống đạo lý làm người – minh triết , sáng sủa , hiểu biết trong đời sống hàng ngày . Người minh triết là người biết yêu thương mọi người xung quanh mình , làm việc gì cũng lấy đạo lý làm người – nhân nghiã làm trọng . Người minh triết còn hiểu được lẽ huyền vi biến thông của vũ trụ . Đó là luật sinh hóa Ngũ Hành – Tứ Thời – mà sống theo thời của mình .
Theo thời là hợp là thuận với thời để đạt mục đích làm người , là có trách nhiệm với thời đại của mình .
Trách nhiệm đó có nền tảng Tứ Giáo Đồng Nguyên đối với vũ trụ nhân sinh và lịch sử .
Trời Đất là cha mẹ nhân từ sinh ra ta – là người Việt phương Nam – và chủ quyền lãnh thổ tại phương Nam .
Trời đất chẳng những sinh dưỡng ta mà trời sinh hóa cả vũ trụ vạn vật để cho người thay trời ở thế gian mà thi hành cái đạo trời ( Đại Hành )
Người Minh Triết tiêu biểu cao tinh thần kẻ sĩ Việt Nam có tài năng trước hết là lo giữ nước ,an dân , thếit lập nền pháp trị bảo vệ muôn dân lấy sự nhân tâm công chính làm đầu – xây dựng đất nước cường thịnh . Thế nên vua Lê mới xưng là Lê Đại Hành – để điều tiết mọi hành động con người với phát triển xã và đất nước ( Tổ quốc Đại Việt ) cho nên đời xưa bậc minh chúa giữ được nước , không để một tấc đất của tổ tông bị mất vào quân xâm lược .
Đối với dân , yêu dân như yêu con mình .
Thương cả những người lầm lỗi tội đồ sa chân vào vòng tù ngục , tiêu biểu là vua Lê Thánh Tôn . Người cởi áo mặc cho người ốm đói nằm bên lề đường , giữa thời đông thiên lạnh lẽo .
Người Minh triết tạo công trình phúc lợi cho dân , đắp đê điều , chỉ dân thửơ đầu cấy lúa và sống ăn ngủ , cùng tắm trên một dòng sông với dân tộc ( Vua Hùng ) .
Chẳng những thế , Người Minh Triết lên núi trồng rừng , xuống đồng bằng xây đập , mở đê , đục thuyền gỗ , tạo thuyền buồm làm lứơi cùng đánh cá ngòai khơi .
Từ buổi sơ kỳ Thần đã xuất hiện và sự uy linh có mặt khắp nơi , vì thế mà tâm linh dân tộc Việt luôn ngời sáng luôn minh triết , để cán đáng , gồng gánh núi sông , khai phá bờ cõi về Nam – xây dựng quê hương thanh bình với gần tám mươi lăm triệu người , gắn bó như 85 triệu chiếc đũa tâm linh , 85 triệu con người có than có phận cùng nhau học được câu dạy của tổ tiên , hợp quần thống nhất nhân tâm là sức mạnh vô địch của tòan dân .
Văn hiến Việt là văn hiến của thần linh – vì tâm linh vũ trụ của trời đất đều có ẩn sâu trong nhân tâm người Việt .
‘’ Thiên lý tại nhân tâm ‘’
Thành Đại la do Cao biền xây thuộc về nhà Lý tu bổ lại có thần tiên thể hiện giữa trời để chào mừng Lý Thái Tổ dời đô . Có mây lành bao phủ như lọng vàng , khí thiêng sông núi về hội tụ .
Văn minh Thần đạo chẳng những sinh ra nhà tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm , mà còn sinh ra Ông Tổ nghề Y dược là Tuệ Tĩnh thiền sư , cùng với Hải Thượng Lãn Ông là tổ nghề thuốc , viết sách dạy dân làm nghề y dược cứu đời . Công lao sự nghiệp để lại cho đời rất nhiều bộ sách trong ngành y vô cùng quý giá , có đền thờ Thần Y ở xã Lang Đồng huyện Chí Linh – Hải Dương .
Trong Thần Thọai có cây đa Thần , có Hằng nga và Chú Cuội – cũng là thủy tổ nghề thuốc , từ thửơ sơ khai , buổi bình minh của Âu lạc . Trong văn hóa thời cổ đại Thần tiên thường xuất hiện trong hang động , ở núi cao rừng thẳm , từ trên trời xuống . Vì thế mà tiên ở đây cũng là một dạng Thần trong văn hóa Việt .
Tiên thảnh thơi nhàn nhã , không bận tâm xây dựng làng nước xã hội gì cả ! Chỉ biết có hoa đào , bình rượu , túi thơ ngao du khắp càn khôn vũ trụ và khinh ngạo tất cả những gì vật chất hệ lụy của trần gian . Từ Thức người trần mà tìm dấu thiên thai , lên chốn tiên cảnh khi nhớ trần gian trở lại ( một năm sau ) thì cỏi trần như giấc mộng . Chàng thấy mình đã hóa già từ lúc nào .
Quê quán chàng chẳng biết chàng ta là ‘’ ông ‘’ nào , trẻ con nhìn chàng với đôi mắt ‘’xa lạ ‘’
Ta không cần suy diễn để bàn thêm về việc này .
Chỉ nói cõi tiên là cõi vô sự , an nhàn và người đời luôn mơ ước . Văn hóa tiên là một lọai văn hóa siêu hình , viễn tưởng , viễn mộng , trường cửu nhất của lòai ngừơi , xa rời lý âm dương , vô phân biệt và chỉ có nơi đó chứa duy nhất sự thánh thiện tinh khiết và đẹp nhất . Một lọai văn duy mỹ kỳ diệu nhất của người Việt .
Vén mây mở lối động đào
Tìm cho rõ được lối vào thiên thai .( Kiều )
Hòan toàn là một lọai thi ca trữ tình nhất mà cũng nhân bản nhất . Sau này , khi người Việt đọc thêm sách Chữ Hán , các câu chuyện Thần tiên của Lão giáo đầy Chân Thiện Mỹ như truyện Bát Tiên Quá Hải , lập tức được đồng hóa vào tiên động đào của người Việt mà thành một lọai văn hóa tươi đẹp sáng sủa lung linh siêu việt nhất . thật ra các câu chuyện Tiên hay Hồ Ly xứ nào cũng có , nhất là ngừơi Á Châu
Chúng ta lưu ý - Thần – Thánh – Tiên – Phật đều là một nhất thể linh diệu cả - để bổ sung cho tinh thần thực tiễn của văn minh nông nghiệp lúa nước thêm vẻ kỳ ảo mông mênh vô cùng .
Cõi đời trăm năm quá ngắn , có hành động gì đi nữa chớp mắt cũng tàn như buổi tiệc hòang hôn . Truyện Thần tiên nối dài viễn tưởng cho lòai người sống thêm , bất tử cùng với thời không gian .
Nhờ có truyện Thần tiên , mới tạo ra cảm giác hoan lạc đến vô cùng . cả thuật phòng trung , giao hoan , ân ái chan hòa , cả nét nhân bản kia cũng từ cõi mộng ảo của lòai người mơ đến Thần tiên mà ra thôi .
Từ thưở tiên đi sầu cũng nhỏ
Nhân gian ai chép nhạc Nghê Thường
Cỏi đời lẳng lặng quên xa biếc
Đi hết thời gian không nhớ thương
( Huy Cận – Lửa thiêng )
Đọc văn thơ tải đạo – đạo lý trường sinh bất lã phép thuật cao thâm , chỉ có lọai Thần tiên của Việt Nam và Lão giáo mới đạt được chân lý tưởng cửu tại thế mà thôi .
Sau này dù có đạo , có tư tưởng văn hóa thế giới phong phú đến đâu , cũng khó mà bì kịp với tinh thần Thần đạo của Việt Nam . Đem Thần tiên về sống với cõi đời – bất tử vậy .
Tinh Thần hiện thực xa xưa – đời sống nông nghiệp khiến tinh thần thực tiễn cao . Tuy nếp sống tâm linh hoằng viễn nhưng thực tế các công cuộc kiến quốc , xây dựng Tổ quốc và đời sống bình thường của xã hội nông nghiệp lúc àno cũng ‘’ lưu ý ‘’ con người pảhi thực tế trước cuộc sống khó khăn nghèo đói lạc hậu và bị siết chặt từ các quan lại triều đình . Cho nên họ đã thốt lên :
Còn gạo nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rông , nhất nông nhì sĩ .
Hay như Tú Xương :
Thúng đấu nhờ ơn bác mẹ mày !
Những hiền nhân quân tử trước vẻ đẹp của ‘’ Hang cắc cớ ‘’ thì :
Mõi gối chồn chân vẫn phải trèo
Trước bức tranh tả chân của thiếu nữ đang nằm ngủ:
Yếm đào để trễ dưới nương long ( Hồ Xuân Hương )
Khiến cho nền văn hóa phồn thực đầy nhân bản , nở rộ muôn ngàn hương sắc trong đạo Thần tiên người Việt .
Như thế rõ ràng văn hoá đa dạng của Thần đạo là một tổng thể của mỹ cảm của tình người .
Chắc chắn là lối văn chương tả chân , trào lộng cùa Tú Xương , nữ sĩ Hồ Xuân Hương của Việt nam đã thực hiện đời sống tinh thần và vật chất của người Việt Nam đã hiện thực đời sống tinh Thần và vật chất của người Việt trước làng nước , xã hội Việt .
Chắc chắn là nó hiện diện trước khi có lọai hiện thực xã hội từ Âu Mỹ vào Việt Nam , qua các tác phẩm của Victor Hugo , của Dos – của các tác giả . Cả phong trào siêu thực cũng đến sau siêu hình , ấn tượng , duy lý , duy tâm , duy Thần của thi văn cổ đất Việt.