Tuesday, 31 December 2013
Friday, 13 December 2013
Friday, 22 November 2013
VIETNAM 5.000 YEARS
Thiên thượng ca
Cho nhau nguồn hữu hạn
Lưng trời tuyết gọi mây
Cuối trời hoa gọi gió
Đỉnh trời khí đổi thay
Hoàng hôn sầu tịch mịch
Thời gian điểm dông dài
Bão trời xô tám hướng
Mắt trời điểm nhẹ bay
Nguồn sinh linh tận tuyệt
Cát bụi vốn từ tâm
Lệ hồng trần lụy tán
Bay vào cỏi vô sinh
Chiếc bè lau nhẹ bổng
Nâng hình bóng thiên kiều
Xõa dài giòng lệ suối
Thơm ngát hố tịch liêu
Các con khôn lớn
Những đứa on ra đi từ thuở bé
Trên những con tàu nhỏ vượt đại dương
Tổ quốc con mơ hồ trong nhịp thở
Của mẹ cha hàng xóm Việt tha hương
Khi khôn lớn con nhìn vào khung kiếu
Mặt mủi ta là dân Việt con ơi!
Dù có quên cội nguồn ngữ mẹ
Cũng không quên nguồn cội của con người
Những đứa con sống quen từ thuở bé
Trong tự do trong hạnh phúc con người
Rằng ở tận trời Nam nhiều bão tố
Bao kiếp người dưới ách kẻ vô lương
Lời nói điêu ngao của phường hai lưỡi
Như rắn hổ mang quấn chặt con người
Bao tội ác từ trăm năm thay đổi
Bao nhục hình đen tối ngục trần gian
Các con lớn khôn vì tình nhân loại
Các con lớn khôn phá ách tù đày
Các con lớn lên với niềm kiêu hãnh
Mang tinh thần thay số phận con ơi!
Ánh mặt trời soi
Ánh mắt soi qua vạn cảnh đời
Nhật nguyệt càng thêm rạng ánh ngời
Tấm gương kim cổ vầng mây trắng
Thế giới đau buồn cứ tự trôi
Lòng ta như một vầng mây trắng
Chiếu ánh dương hồng đục lại trong
Tấm lòng phiêu lãng theo giòng nước
Nước chảy nghìn năm đá cũng mòn
Bèo giạt mây trôi lớp lớp qua
Bóng chim tăm cá ánh dương tà
Bia trời mấy bận lòe mây khói
Đất trổ ong buồn bước bước sa
Trời chiều ta đứng theo hương sắc
Nước đã vào thu mấy đoạn đời
Con sông có khúc rồi trôi mãi
Ta nhớ hình em lộng giữa vời!
C4ung cũng như ngươi loài thảo dã
Thú cầm bỗng chốc hiện nên người
Vút nanh mồm mép đầy xương máu
Thống trị trăm dân nghiệt súc đời!
Rồi cũng có khi trời ngó lại
Lòng dân trăm họ sục sôi cuồng
Đứng lên nghĩa cả trừ tham bạo
Giữ lại muôn đời nét kỷ cương
Lê Nguyên Đại
Saturday, 9 November 2013
VIÊT NAM. 5.000 YEARS
TRÂN TUÂN KIÊT NAM NHIÊN
VIÊT NAM.
5.000 YEARS
Trần Tuấn Kiệt – Nam Nhiên .
Việt nam 5.000 years - Quyển 1 : 2800 TCN – 1675
Sơ Lược Lịch Sử Việt Nam qua sơ đồ
Món quà đặc biệt vào dịp Giáng sinh cho mọi nhà Việt Nam .
Giá £ 9.99 – Phí vận chuyển qua Bưu Điện £10,00 .Thanh tóan bằng séc hay chuyển vào tài khỏan .
Thanh tóan bằng tiền mặt , nhận hàng tận nơi : £9.99 .
Sunday, 27 October 2013
Wednesday, 9 October 2013
XÂY DỰNG VŨ TRỤ NHÂN SINH QUAN THẾ GIỚI QUAN -TÍN NGƯỠNG THẦN ĐẠO VIỆT NAM !!!
XÂY DỰNG VŨ
TRỤ NHÂN SINH QUAN THẾ GIỚI QUAN
Xây dựng một vũ trụ , nhân sinh – thế giới quan mới đúng là tinh
thần của một quốc gia Việt Nam hiện đại từ nền tảng Thần Thọai – kết hợp với
Việt Nam hóa các trào lưu tư tưởng mới hiện diện tại nước ta – xa rời chủ nghĩa
tệ hại làm mất đi cái qúy giá của tinh thần , tâm linh của người Việt . Như thế
, đạt tới căn nguyên , cội nguồn văn hóa dân tộc cựu truyền , thì sẽ đưa tinh
thần Tôn giáo và triết học hiện đại đúng hướng của thời đại và của một thế giới
mới và tòan diện .
Ông
Trời trong tín ngưỡng dân tộc
Với sự phát triển của khoa học ,
văn hóa tâm linh , ý chí siêu việt của Thần Thọai , người Việt đã có một nền
văn hóa lớn lao biểu thị cho nền văn minh Đại Việt hình thành ( chữ Đại Hành ở trong sách này trước tiên là sự vận
hành của Tạo hóa ) .
Thế giới chỉ có một ông Trời chung
cho tất cả mọi người , mọi vật . Mặc dầu các dân tộc gọi Ông Trời theo ngôn ngữ
và tiếng nói của dân tộc đó . Đó là Đấng Chí Tôn tối linh không có Đấng
nào khác quan trọng vĩ đại hơn Ngài . Ngày nay ghi lại tất cả tư tưởng tôn giáo
trên thế gian là một việc hệ thống cho
tòan thể được nhất quán .
Người Việt thường tự hào với văn
hóa Đông Sơn , với biểu tượng Trống đồng và nghi thức tối cao thờ Thần Đồng Cổ
trước thời Tần Hán xâm chiếm nước Việt một ngàn năm . Các nhà khảo cổ thường tìm tất cả mọi di chỉ để chứng
minh đó đích thị là Trống Đồng xuất xứ tại làng cổ Đông Sơn bên bờ sông Mã .
Trống Đồng cũng tìm thấy ở Vân Nam – và các nước Đông Nam Á .
Việc này ghi chép cho rõ nới phát
tích ra một nền văn minh của thời đại đồ Đồng , Trống Đồng là văn minh chung
của các dân tộc bán đảo . Riêng đối với Đại Việt Thần Đạo có một ý nghĩa tôn
giáo đặc biệt . xác tín rằng văn hóa Trống Đồng đông Sơn là ở tại miền Bắc Việt
thuộc trứơc công nguyên . Chứng tỏ tôn giáo Thần Đạo xuất hiện qua Trống Đồng
và các hình tượng như Mặt Trời , các con chim Lạc – còn đặc biệt có hình tượng 4 cặp nam nữ thực hiện nghi lễ
phồn thực , hành động giao hoan tự nhiên , của nền văn hóa đa dạng ấy . Hình
đua thuyền , con cóc ngồi sẵn , văn minh nông nghiệp . Nhưng điều quan trọng là
thời đại Hùng Vương có đền thờ Thần Đồng Cổ .
Hằng năm vào dịp tết , vua quan đều
ra đó ăn thề , để chứng tỏ tấm lòng
thương yêu vào việc thờ vua chí trung ,
đòan kết bảo vệ dân tộc Việt từ ngàn xưa khác với các nơi khác , không có đền
thờ Thần Đồng Cổ . Giáo sư Nguyễn Đăng Thục viết trong Lịch sử tư tưởng Việt
Nam rằng Người Việt thời Hùng Vương đã có tôn giáo chính thống của mình là Thần
Đạo thờ Trống Đồng – là Thần Đồng Cổ . thêm vào đó các Thần tích trên mai rùa
Thần có ghi lịch sử sáng chế Thần Thọai hình thành vũ trụ và Người Việt
Chữ Khoa Đẩu – Bức Hoành
phi
Thời Thượng cổ có “ cả chữ Khoa Đẩu “ là chữ
Quốc Việt . Hình ảnh con Rồng cũng biểu thị cho nền văn hóa phi phàm của dân tộc con Rồng cháu Tiên .
Chúng ta thấy có vài hình tượng đức
Phật cưỡi Rồng hay mẹ Maria đứng trên đầu rồng . Không biết vô tình hay cố ý
người ta xâm phạm vào vào văn minh , tín ngưỡng
của Việt tộc . Điều này một người
Việt Nam chân chính không ai làm như thế .
Thầy giáo dạy 2 công
chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa – 2524 TCN –BC ?
Xin nhắc lại chữ Khoa Đẩu là một
lọai chữ riêng của của dân tộc Việt thời cổ , vì sự xâm lược của rợ phương
Bắc tàn phá muốn mưu đồ đồng hóa dân
Việt . Chữ Khoa Đẩu đã mất dấu tích , chỉ còn trong truyền thuyết mà thôi .
Đời Vua Lê Thánh Tông nằm chiêm bao
– Ngừơi nói có thấy mường tượng lọai chữ
viết của người Việt cổ , nhưng đáng tiếc la suốt mấy chục ngàn năm , người Việt
chỉ nhờ chữ Hán viết theo văn phạm Việt làm lọai chữ Nôm . Hai nữa chữ quốc ngữ
của ta đang viết là chữ của La Tinh , của Pháp do Alexandre Rhôdes tạo ra .
Thời đại này các nhà ngôn ngữ học ,
nên cố gắng tạo ra một lọai chữ đặc thù
, chính thống là của sự sáng tạo của người Việt chắc không phải là vô ích .
Chính thống – về mặt tôn giáo và tư
tưởng cũng vậy , chẳng lẽ có 5.7 ngàn năm lịch sử và văn hóa , người Việt chẳng
có tôn giáo chính thống nào xuất hiện hay một lọai chữ mang sắc thái tinh thần
của người Việt mình hay sao ?
Cứ nhai đi nhai lại tư tưởng người
ngòai , nhắc tới nhắc lui hòai mấy ông Khổng Mạnh , thì thật đáng chê trách .
Nói như thế , dân Đại Việt không chỉ có võ công mà có cả văn nghiệp , và các
nền tảng khoa học , để xây dựng một nền văn hóa
dân tộc hiện đại
Kẻ tài hèn sức mọn này , dám làm cái việc qua mặt cha ông , là đi một bước liều lĩnh , để thực hiện
chân lý đó vậy . Chúng tôi nghĩ rằng sẽ có nhiều người đồng tình , có tài trí
hưởng ứng và góp tay vào xây dựng nền Thần Đạo Việt Nam . Tư tưởng văn hóa của người Việt cả nhà nước
nào cũng vậy .
Từ lâu người Việt cứ giữ thế thủ ,
để cho các nước lớn xâm lăng , tấn công
đẩy chúng ta – về thế võ công tự vệ của người Việt .
Tư tưởng văn hóa mới phóng tầm nhìn
và họat động ra ngòai thế giới tòan diện hơn – sâu xa hơn – từ các môn nghệ
thuật và thể thao , phải có tư tưởng mới phóng ngọai được .
Trong Việt Nam học , trải qua hơn
mười năm công phu , ban tổ chức làm việc vô cùng quan trọng , để cho người trong nước và ngọai quốc hiểu
sâu xa , về đời sống , văn hóa Việt Nam .
Tuy nhiên , có điều họ không đề cập
là Tôn giáo chính thống và chữ Việt chính thống là gì ?
Một thiếu sót có vẻ ngây thơ , mà
các nhà Việt Nam học không lưu ý tới . Dường như các nhà ngôn ngữ học chỉ học
văn hóa , ngôn ngữ mà thôi , chứ không thấy họ sáng tạo ra cái gì có hồn dân tộc cả . Huống chi là nói đến cái
Đại Hồn của dân tộc . ( Đại Việt Thần Đạo ) .
Phần tìm hiểu về văn hóa Đông Sơn
dường như người ta chỉ nói và trưng bày cái hồn của vật thể , mà ông cha từ
nghìn xưa , đã tạo tác đặt để tạo Trống Đồng , các hình tượng biểu thị ra Mặt Trời , Chim Lạc –
các hình tượng về tính dục của văn hóa Phồn Thực – của từng cặp biểu diễn tư
thế sản sinh nòi giống , làm tình tự nhiên – có ý nghĩa phát triển thế nhân –
hay các hình tượng khác có trên các lọai Trống Đồng – Thạp Đồng như hình con
cóc – ( cậu Ông Trời ) của Thần Thọai và cổ tích Việt Nam .
Mỗi tư thế , mỗi hình tượng nói lên
một tiếng nói thiêng liêng , gây ấn tượng gì của nền văn minh Đại Việt xưa nay
– Phần này chỉ để nhắc cho dân tộc ta biết từ ngàn xưa , người Việt cổ đã có
một tôn giáo chính thống là Thần Đạo . Một số người Pháp viết về văn minh Việt
Nam đều biết rõ và có ghi lại ( xem sách Tư tưởng Việt Nam của giáo sư Nguyễn
Đăng Thục ). Đền thờ Trống Đồng – Đền Đồng Cổ
, quan trọng vào bậc nhất , linh thiêng vào bậc nhất trong lịch sử Việt
.
Từ đời Hùng Vương , đến đời sau này
, nhất là đời Trần về sau - mỗi năm các
quan hội thề ở đền Thần Đạo - Đền Đồng
Cổ - để thề trung quân ái quốc – đối với vua và dân tộc – cho nên Đền Đồng Cổ
là ngôi đền Thần Đạo của Thần Đạo Việt Nam , các miếu đình về sau nới nào cũng
có thờ Thần sở tại .
Thế mà đến nay không nhà văn hóa
nào ngòai cụ Nguyễn Đăng Thục nêu lên Thần Đạo là văn hóa chính thống của Việt
Nam cả , thật đáng tội , đó là tội bất hiếu , bất kính với người xưa , đã ra
công sức đúc nên Trống Đồng và ý nghĩa của nó là ý nghĩa của Thần Linh hiện thể
“ Việc này tôi nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần rồi ! “.
Các bạn muốn tìm hiểu thêm ý nghĩa
văn hóa tôn giáo , thì nên tìm tất cả tư liệu của nền văn hóa Đông Sơn – lưu ý
đến các hình tượng về tôn giáo trong đó . Trong văn hóa Đông Sơn còn có một
hình người cầm đèn và đội cái Trống Đồng trên đầu là biểu tượng cho ngọn lửa ánh sáng soi rõ vạn vật và sinh
hóa vũ trụ - đội cái Trống Đồng trên đầu là thờ Thần Đồng Cổ - mà các nước Đông
nam á hai miền Hoa Nam không có , ngọn lửa trong tư tưởng Việt là ngọn lửa sinh
hóa vũ trụ vạn vật , như ngọn lửa Prométée hay của giáo phái thờ lửa của Ba Tư
– Bái Hỏa Giáo của Zarathoustra – đền
thờ Trống Đồng là Đền Đồng Cổ Thần Đạo , là tôn giáo chính thống của Việt Nam
cổ đại mà thế giới nghiên cứu nền văn minh chính thống Việt Nam đều biết cả .
Các hình chim Việt – chim bồ câu ,
biểu tượng người hạnh phúc an lạc , hòa bình của nước Văn Lang thời Hùng Vương
đến nay .
Đền Đồng Cổ là nơi hết sức linh
thiêng mà hằng năm , các vua và quan lại trong triều đều đến “ăn thề “ tại ngôi
đền thiêng này – kể từ đời Lý Trần về sau , mỗi lần tiếng Trống Đồng đánh lên ,
quân Mông Cổ kinh tâm táng đởm , thất sắc ra mặt .
MAI TÁNG TRONG THẠP ĐỒNG ĐÔNG SƠN
Trước khi mai táng người chết ,
người xưa thường đập phá làm hư hao các vật tùy táng theo sự tin tưởng của thời
cổ đại . Họ cho là người chết có đem theo tất cả các đồ vật hư nát cả này mới
xài được , dùng được ở thế giới bên kia
. Ngày nay người ta đốt giấy tiền vàng bạc cũng phải đốt hết – không để miếng
giấy nào còn lại chưa cháy . Hay đốt quần áo bằng giấy … - đều đốt cháy hết cả
. Nếu vật chưa hư hại , chưa cháy hết , thì nó thuộc về thế giới bên này ,
người chết không dùng được .
Người Việt cổ cũng ướp xác ( như
pho tượng Phật còn lại đến này ) . Tuy nhiên rất ít có lệ này . cả vua quan đời
xưa đều chôn cất tử tế - ở trong các mộ thuyền – khóet lỗ trong thân cây như
chiếc ghe , rồi đặt xác người chết vào mà mai táng . Hoặc thiêu xác ra tro rồi
bỏ vô thạp hay bình lớn bằng đồng mà chôn – như lời đức Trần Hưng Đạo Vương căn
dặn con cháu trước khi người về trời .
Đức Hưng Đạo Đại Vương cũng không dặn con cháu xây lăng mộ gì cho
mình cả - mà bảo chôn hài cốt xuống đất trong vườn nhà , rồi khỏa đất lại cho
mất tích luôn .
Có lẽ người đề phòng sau này quân thù sang xâm lược và
tàn phá chăng ?
Người giàu có bình thường thì dùng
trong quan ngòai quách , vừa kiên cố chắc chắn – xưa cũng có táng mộ đá – mộ
Chum – không phải chỉ có chiếc hòm gỗ hay hòm kiếng như ngày nay .
Thần Đồng Cổ là vị Thần uy vũ đức độ . Ngài là chúa tể duy nhất , độc
lập ở thế giới lòai người , đưa dân tộc Việt Nam trở thành một đất nước oai vũ
dưới trời .
Tuy nhiên lòng Thần nhân hậu , Thần sống trên 99 dãy núi Hùng và núi Đồng
Cổ để coi sóc người Việt . Ngài không tha thứ cho lũ yêu tà nào đến đất
Việt cả . Tiếng gầm của Ngài vang cả thế giới , khiến kẻ thù của dân Đại
Việt phải khiếp sợ kinh hòang . Trước đây thái tử Mông cổ nghe tiếng gầm của
Ngài phải chui vào ống đồng , cho quân
kéo chạy về nước . Thần Đồng Cổ tượng trưng cho Sấm Sét nữa .
“ Uống máu ăn thề “ là cổ tục của
người đời trước .
Chúng ta được phép ăn uống bắt sống
các vật sinh để lấy thịt nấu ăn từ xưa
đến nay .
Cấm ăn các lòai chim nhỏ như chim
sẻ , Cấm ăn thịt chim Hồng hạc – các lòai Hạc và khỉ vượn – các lòai thú không
có linh hồn mà chỉ có vía . Khi giết thịt xong thì vía đó tiêu mất .
Cấm ăn các lọai linh thú của Thần
Thọai và lịch sử :
- Cá chép vì hóa rồng ( Hồng long
)
- Bạch Hổ
- Bạch Tượng
- Bạch Trĩ ( các lòai Công và Trĩ
)
- Các lọai rùa lớn và đồi mồi Kim
quy
- Chim Hòang Cao Cát
- Phượng – Phụng Hòang
- Mèo ( Linh Miêu )
- Chó ( trung với chủ ) đền cẩu
nhi thờ chó Thần .
- Ngựa ( Bạch Mã )
- Kỳ Lân – Long Mã phụ đồ
- Con cóc ( là cậu Ông Trời )
- Chim Bồ Câu ( đưa thư )
- Các lọai Gà Linh ( Linh kê như
Gà Tử Mị - Thần Kê .. )
Bùi
Giáng có thơ :
Con kiến bé hoa hoang và cỏ dại
Con vi trùng , sâu bọ cũng yêu luôn
.
Luật Thần Đạo cấm việc sát sanh hại
người .
Dĩ đức báo óan là đạo đức của người
quân tử phương Nam ( Lão Tử ) người Bách Việt .
Thần Đạo quy định như sau :
Từ 1-12 tuổi : thời thiếu niên
Từ 13-25 tuổi : trưởng thành – tự
mình chịu trách nhiệm về hành vi của mình .
Từ 25-35 tuổi : thành nhân
Từ 35-50 tuổi : lập thân và làm
việc đại sự
Từ 50-60 tuổi: an định ( ngũ tuần )
Từ 60-70 tuổi: trời ban
Từ70-90 tuổi : Thiên Đức ( tuổi Cửu
Huyền )
Từ90-125 tuổi : văn thời – Qui cố
thổ , hưởng trường thọ - khang ninh .
LY HÔN
Người vợ hay chồng ly hôn là không
phải Thần Đạo .
Vợ chồng là căn bản của đời sống
nhân lạoi .
Người đạo sĩ trong đền chứng minh
cảnh hòa hiệp – đính hôn ( tại đền Thiêng - Thần Đạo ) .
Nếu sau muốn ly hôn , vợ chồng phải
ra trước pháp luật . Nơi đó đạo sĩ đứng ra nhận lấy tờ giấy ly hôn của hai
người đã đồng ý , đặt lên bàn thờ Thần rồi công bố : “ đại diện cho Thành hòang
bổn xứ “ hôm nay chúng tôi chấp nhận lễ ly hôn mà đôi vợ chồng này đều mong
muốn “
Được ghi vào sổ “ Thiên luật “ để
làm bằng chứng trước pháp luật . Đạo và đời là một . Luật Đạo cũng như luật đời
, ngăn cấm ly hôn bất cập , la để đôi vợ chồng suy nghĩ cẩn thận , rồi mới đặt
bút ký ly hôn .
Nếu tôn
giáo nào bắt buộc Người Việt phải bỏ đạo của mình để theo đạo của họ , rồi mới
được kết hôn , không phải là chính đạo .
Như thế
bạn hỏi lại , các bạn có tôn trọng Thần Minh của ta không . Có chịu bỏ đạo của
họ theo đạo của ta không ? . Thì ta cũng vậy .
Ta không bao giờ bỏ đạo của ta . Một là theo đạo của ta . Hai là giữ đạo
của người nấy . Vì đất nước Việt là gốc
của đạo , ở nơi quê hương này .
Phải tôn trọng đạo gốc trước hơn
hết . Và tôn trọng đạo nhà mà trời đất
chứng trí cho – được vững bền hạnh phúc vậy .
Đạo nhà là Thần Đạo – hay Đại Việt
Thần Đạovà các đạo khác là Bách giáo Đồng Nguyên – Khổng đạo – Lão đạo - Phật
đạo – Thiên chúa Giáo và Ấn Độ Giáo – Hồi Giáo – Bái Hỏa Giáo …
Bách giáo Đồng Nguyên có ý nghĩa
các tôn giáo truyền thống . Cụ Lý Huyền Đồng từ ngàn xưa nói rằng :
-
Trời mở đạo xuống thế gian . Khắp mặt hành tinh của ta đều có các Đấng
Giáo Chủ của vũ trụ vạn vật . Đạo nào
cũng phải thờ cúng , lễ bái để tỏ lòng
thành , hiếu thảo đến vị sáng thế - và chỉ có Người duy nhất , độc lập và tối
thượng – Ông Trời .
-
Các tôn giáo trên thế giới đều thờ Trời , mặc dầu tên gọi mỗi nước , mỗi
miền có khác nhau . chính tại nước Việt
, dân tộc Chàm hay Mường gọi Trời là Giàng , cũng vậy
Bách Giáo Chủ chỉ về tòan thể các
tôn giáo nhân lạoi – như Bách Gia Chư Tư của Trung Quốc vậy .
Bách Giáo Đồng Nguyên – là tất cả
đều do một nguyên lý sáng tạo ra và kết tụ tinh thần đó tại Việt Nam ngày nay .
Cho nên Đại Việt Thần Đạo dung hòa
các giáo phái lại như tình anh em bốn biển đều là một nhà , để cùng tạo ra một
thế giới hòa bình thân thiện và tin tưởng vào Đấng vô cùng – và tôn thờ Đấng
Đại Ngã ấy làm chúa tể vạn vật .
Trong nước Việt Nam , cũng có đạo
Tin Lành , Đạo Hồi , Đạo Ấn và Tây tạng – có những mâu thuẫn lịch sử , nhưng
rồi cũng dung hòa được .
Nhưng tại đất nước Việt Nam , các tôn giáo đều được trọng thì các tôn
giáo khác cũng phải tôn trọng đạo của Người Việt , cũng như tổ quốc Việt Nam.
Vậy sau này phải thành lập rất nhiều hiệp hội liên minh tôn giáo tòan cầu ,
hiệp hội văn hóa nghệ thuật tôn giáo , hiệp hội tôn giáo đồng ký hiệp định hòa
bình , nếu tổ chức Liên Hiệp quốc bất lực không tạo ra được .
ĐÌNH THỜ THẦN VÀ
NGHIÃ TRANG
Thân xác có thể trờ thành kim cương
bất họai vì nghệ thuật ướp xác thời cổ đại ở các nước - Việt Đạo cũng có :
Linh hồn bất tử vượt qua họa phước
.
Luân hồi tại thế .
Làm ác thì bị hình phạt tại thế
gian theo luật pháp . Linh hồn bị sa vào hỏa ngục ngàn đời
Triết lý nhân quả của đạo Phật cùng với tư tưởng
đầu thai trở về thế gian , cũng tương xứng nhau – để cảnh báo cho người
đời phải
ăn ngay , nói thật , nói thẳng – hạng người sòng phẳng đó , sẽ được đầu
thai sống lại nới cửa phú quý vinh hoa trần thế .
VÀI Ý NGHIÃ THẦN
ĐẠO
ĐỀN THỜ
LÀNG XÃ ( ĐÌNH )
Nơi các hồn linh ở thế gian quy tụ
lại .
NGHĨA
TRANG
Giữ hài cốt quý báu của lòai người . Chôn cất tử tế cha mẹ
, ông bà là báo trọn chữ hiếu đối với tổ tiên .
Người có cái tâm lớn màu nhiệm là
người có hiếu thảo với tổ tiên giống nòi
.
Mẹ Âu Cơ là người sinh ra dân tộc Việt đầu tiên – là
vị Thần sẽ giữ linh hồn và hình hài chúng ta để tạo phần bất tử đời đời , ý Mẹ
muốn thế .
Nghĩa trang là nơi linh hồn đi về
từ cõi âm và cõi đời và cõi hồng minh .
Nơi Nghĩa trang nên có một miếng
đất cao ráo làm ngôi miếu thờ tất cả linh hồn người chết . tương trưng cho ngôi
nhà Thần đạo dựng lên để các vong linh đó có nơi nương tựa , người đi viếng mộ
, lễ bái .
NGHĨA
TRANG TỪ HIẾU
Chùa Thiên Mụ nơi an nghỉ của các
họan quan triều đình Huế .
Chết là một sự khổ hạnh ó ý nghĩa
vô thường – và đó là nguồn đau thương và bất lực nhất của đời người , đối với
mọi người xưa nay , vì thế mà người thân , phải tạo cho người chết một nguồn an
ủi vô tận . đó là tấm lòng thương tiếc vô hạn với người chết . Sống có nhà ,
chết có mồ có mả .
Bao người thân thích không những để
tang cho cha mẹ , ông bà – những người thân yêu
nhất của đời mình . suốt đời trong tâm tưởng của mình mang một cuộc tang
khó , những hình ảnh thân yêu để lại trong lòng người khôn nguôi .Trời có sinh
và có diệt , để tạo cho mầm sống khác vươn lên theo lẽ trời – nhưng người đời lại không thể sanh lại hình bóng thân yêu
như tổ tiên , ông bà , cha mẹ và người thân đã mất – con người có một điều bất
hạnh lớn là ở đó . Phương pháp lấy gene
cũng không thay đổi được nổi đau buồn
mất mát người thân của gia đình . Người
Việt rất buồn khổ về sự bất hạnh đó cho nên từng than :
Rắn già rắn lột da
Người già người tột đầu xăng
Thế giới mơ hồ có một điềm gì phi
lý trong cuộc đời bất hạnh đó về cái gọi là số phận – là định mệnh cuộc đời
người .
Khổng Tử bảo – “ cổ kim hận sự
thiên nan vấn “
Rồi lại nói rằng : Trời có nói gì
đâu !
Ông lão Tử bảo rằng : Trời đất vô
tình coi thiên hạ như lòai chó rơm !
Sartre cho rằng : - có cái án tử
hình treo cuối cùng ở đời người .
Cuộc đời đáng nôn mửa – ù lì !
Đáng chán . Phí lí – thật !
Đạo Thiên Chúa coi cái chết như
chúa gọi về bên kia thế giới , về thiên đường .
Phật bảo – vạn vật vạn pháp vô
thường !
Chỉ có chiêu lỳ Phạm Đan Phương thì
cười đùa với cái chết
Năm bày
năm nay những lạon ly
Cũng thì
danh pậhn cũng thì thi
Một tập
thơ sầu ngâm sảng sảng
Vài vai
rượu hết ní tỳ ty
Năm bảy
đời vua thấy chán ghê
Chết về
tiên bụt cho xong kiếp
Đù hỏa
trần gian sống mãi chi !
( Sống ở đời quá nhàm chán thì chết
cho vui ! )
Chết theo Tú Xương
Sống ở
dương gian đánh chén nhè
Thác về âm
phủ cấp kè kè
Diêm vương
phán hỏi mang gì đó
Be !
Với tinh thần trào phúng Tú Xương
đã vượt qua chặng giữa của đường sinh tử
, bước qua Uổng Tử Thành với một be rượu cắp bên nách mà đi ngang nhiên – cái
chết rất tưng bừng náo nhiệt .
Sống thác
đều có số
Nhớ thương
làm chi hề !
-
Bao nhiêu người ?
( Trần Tuấn Kiệt )
Như tất cả thân bằng quyến thuộc
của ta như ông , bà , cha ,mẹ ở bên kia thế giới đang chờ đón ta sum họp dưới
mái gia đình thân yêu . Người Việt coi cái chết là một sự trở về cõi vĩnh hằng
và gặp lại những người thân đã mất , cho
nên gọi là “Sống gửi thác về “ ( sinh ký tử qui ) . Trăng sao vũ trụ kia là nơi thế giới của người đời có chung có
thủy cả - cho nên có thơ :
Mai sau hò
hẹn xin ghi nhớ
Đừng để
nhân gian lạnh lối về
Điều quan
trọng là sống hay chết
Dù ở thiên
đường hay địa ngục
Vẫn có một
lòng dạ thủy chung (Trần Túân Kiệt)
Là điểm duy nhất của tinh thần Đại
Việt Thần Đạo , như thế là nguồn tin yêu an ủi nhất cho người trước khi
đi về thiên cổ .
NGÔI ĐỀN
THỦY CHUNG
Đạo làm người có thủy có chung là quan trọng nhất – thờ
trời là thờ tinh thần của trời đất đã ban cho nhân lọai một tấm chân tình – một
sự thủy chung – là tặng vật quý báu nhất của con người có được – trước sự sống
và chết của con người .
Lập ngôi đền có 4 ngọn hỏa đăng , ở
4 bên thờ huyền hỏa – đó là ý chỉ ( mục đích ) của Thần soi rọi và chứng giám
tấm lòng thủy chung cao cả của mọi người .
HUYỀN HỎA
CÔNG
Trước đấng Đại Từ Phụ - Chí Tôn
- sáng thế - con xin nguyện – Lời nguyện
của Thần Đạo .
-
Tâm con là ngọn huyền hỏa của trời ( tiên hỏa ) tiêu đốt tất cả sự độc
ác , đen tối chen lộn trên trần gian , làm mờ thiện ý của nhân lọai .
-
Tâm con nguyện thiêu đốt tất cả ý nghĩ xấu xa đê tiện hại người , hại
vật . làm lợi cho tổ tông . Ngọn huyền hỏa đốt tiêu cả ác nghiệt để là người
chánh đạo .
-
Tâm con là ngọn huyền hỏa thiêu đốt tất cả thất tình – lục dục trong
lòng để đạt tới cõi thánh thiện của Thượng đế .
-
Tâm con là ngọn huyền hỏa thiêu
đốt tất cả mọi căn bệnh của thế gian , trở về với cõi thanh tịnh huyền vi mà hưởng phúc thọ của
trời đất .
Kính lạy ơn trời soi xét và chứng
tri cho con .
Tâm nguyện
Suốt đời giữ gìn văn hóa truyền thông và chính thống giáo .
Luôn luôn có tinh thần thượng võ –
không ỷ mạnh hiếp yếu và tôn trọng 4 điều của người quân tử .
Uy vũ bất năng khuất
Bần tiện bất năng di
Phú quý bất năng dâm
Tư tưởng bất năng hoặc .
Ba điều ở trên của đạo Việt Nho .
điều thứ tư là của cụ Nguyễn Đức Quỳnh thêm vào
Vật linh tinh khiết – người xưa nói
“ chí thành thông thánh “ . Vật gì tuổi
thọ bền lâu – thanh sạch sẽ thọ khí âm dương mà hóa thành . Thần Đạo hay đạo
Trời là đạo Chí Thành Chí Linh . Người có tâm đạo có ý chí cao ảc sẽ thành đạt
lớn trong mục đích của đời mình .
ĐẠO
Con người đã có tinh thần , vật
chất nhưng xã hội nhân quần càng ngày
càng tranh chấp xung đột tàn bạo vì của tiền – vì sắc đẹp , vì dục tình và tính
dục mà ra . Không ai dám bảo mình là Thánh Thiện Thánh Nhân cả . Nói
như thế là nói dóc – nói láo! .
Vì thế con đường đạo hạnh là nẻo
sáng thiên đường chân phước an lành cho ai muốn tìm đến với lòng Trời mà tu tâm
dưỡng tính vậy .
TRUYỆN TỀ
THIÊN
Trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân có Truyện Tề Thiên Đại Thánh
.
Một con khỉ do tạo hóa sinh ( từ
cục đá lâu đời mà thành ) lại ỷ tài cao phép lạ nghịch mạng Trời phá Thiên Cung
.
Sau theo phép Phật tu hành thành
chánh quả là Đấu Chiến Thắng Phật . Trong truyện có một điều quan trọng đáng lưu ý là khi đi
học đạo , vì sư phụ truyền dạy tất cả
các tài hay phép lạ cho Tề Thiên thì Tề Thiên không chịu cầu học . Chỉ xin thầy
dạy cho mình đạo trường sinh bất tử mà thôi .
Chứng tỏ ước nguyện của muôn vật
muôn lòai , đều muốn tồn tại lâu như trời đất – bất diệt .
CÁI THÂN Có sinh có diệt ( hóa sinh )
CÁI
THẦN bất diệt bất tử .
Tu luyện theo Thần môn
thì con người đạt tới cõi bất tử , cõi vĩnh hằng .
Đường đi tầm đạo có nhềiu lối – nhưng chung qui chỉ là một “
Thiên địa đồng qui nhi thù đồ “ Đạo bất tử trường sinh ở trước mặt , có tu mới
thành .
Câu nói của muôn đời đơn giản sao
không thấy !
Người ta luyện xuất thần khỏi thân
xác .
Tu luyện bền bỉ chân thành thì tập
trung được cái Thần . Có chết thân xác . Nhưng còn cái tinh thể tinh thần bất
tử ấy sống cùng Trời Đất vĩnh cữu thiên thu vậy .
Thái cực quyền có câu khẩu quyết “Ý
chí quân lai cốt nhục Thần “ tập trung tinh khí Thần – là luyện đạo Trường sinh
bất tử . Bỏ ngòai tai mọi sự tham muốn dục vọng tầm thường , quay về cõi vô vi
– sống cùng thiên nhiên thanh tịnh – tu tập Thần định sẽ thành đạo mà đạt Thần
tính – thể tính của chân lý – niệm Thần .
Ngồi thảnh thơi hoặc theo kiểu kiết
già , bán già xếp bằng yên tĩnh Tâm Thân
– Lột tất cả trược khí ra khỏi thân tâm .
Hướng về Đấng Chí Tôn – tượng trưng
là Mặt Trời – hít thở đều đặn vào các huyệt đạo
( coi các huyệt của châm cứu ).
Chữa mọi bệnh tật trong người .
Đầu hạn tầm liệt huyết
Diện khẩu hiệp cốc khâu
Hung thủ tầm nội quan
Yêu bối hủy trung cầu
Tự mình theo khẩu quyết mà tu luyện
.
Nhất điểm Thiên Quang ở Thần , thất
tinh lục dục ở tâm .
Tập cho thông khí sạch huyết .
Tâm – Ý – kh1i – lực quân bình viên
mãn – gặp được giờ linh thì thành Đạo – cốt nhục Thần . Giờ linh do Trời Đất
ban tặng , con người không thể lường trước được mà chờ .
Chỉ tâm thành thì giờ Linh sẽ đến
thông suốt hết mọi lẽ Huyền vi của Tạo Hóa mà đạt đạo .
Lúc đó điểm Linh quang ở giữa hai
chân mày mà người Ấn giào đểim một điểm son hồng vào đó là Linh Quang của sự tu
hành mà có .
Hòa hợp được âm dương khí lực đều
hòa , giữ gìn thân tâm thường hằng an lạc thì tuổi thọ bền lâu , tinh thần ý
chí là dũng khí siêu phàm vậy .
MỘ TÁNG
Thời Đông Sơn cách đây 2000 năm ,
dân Đại Việt đã dùng mộ thuyền , mộ đá ,
mộ táng để chôn người . Có cả vải kéo sợi đan bên trong
mộ thuyền Đông sơn ( khóet cây như chiếc thuyền táng trong đó ) “ Có một số
thạp khí được đào lên tại Thiệu Dương và Đông sơn ( Thanh Hóa )ở trong có chưa
các đồ trang sức và dụng cụ . Có chiếc còn đựng hài cốt , xương sọ người ,
chứng tỏ tạhp là di vật đã được dùng để làm tùy táng như một quan tài(hòm)
Rìu đá đông sơn
Trên nắp thạp Đào Thịnh ( đào ở Yên Bái ) trang trí các
hình chèo thuyền , vòng tròn tiếp tuyến , chim bay … trên nắp thạp Đào Thịnh
được tạc 4 cặp tượng nhỏ nam nữ đang giao hoan
, thể hiện sinh động tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ đại .
(trên thạp đồng Đào thịnh- hoithao qtsc)
Đền thờ Trần Quý Cáp Bà Triệu Ẩu
Miền Nam VN
Cây đa
Chuông trong Văn Miếu
Hùynh Thúc Kháng
Lăng mộ vua Trần
Phan Bội Châu
Phan Chu Trinh
Subscribe to:
Posts (Atom)